Núi và biển

Chính trị - Ngày đăng : 12:02, 05/02/2008

(HNM) - Trong cảm thức người Việt chúng ta, núi và biển có sức lay động thật mãnh liệt. Biểu tượng con Rồng, cháu Tiên từ huyền thoại Lạc Long - Âu Cơ ghi đậm không chỉ là hình tượng thăng hoa của nguồn cội, mà suy ngẫm cho kỹ, thì ra đây từng là sự lựa chọn thế tồn tại của ông cha ta, hướng núi hay hướng biển?

(HNM) - Trong cảm thức người Việt chúng ta, núi và biển có sức lay động thật mãnh liệt. Biểu tượng con Rồng, cháu Tiên từ huyền thoại Lạc Long - Âu Cơ ghi đậm không chỉ là hình tượng thăng hoa của nguồn cội, mà suy ngẫm cho kỹ, thì ra đây từng là sự lựa chọn thế tồn tại của ông cha ta, hướng núi hay hướng biển? Dựa vào hình thể đất nước “hình khe thế núi gần xa, đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”, chọn hướng nào để phát triển?

Phải chăng truyền thuyết 50 người con theo cha lên núi và 50 người theo mẹ xuống biển là một lựa chọn của sự cân bằng tâm thế hướng núi và hướng biển. Mà hướng biển xem ra có phần ưu trội vì trong mô hình mẫu hệ thì “mẹ Âu Cơ” chắc không phải là yếu thế hơn, nếu không là ngược lại. Chỉ có điều, ân huệ của biển rất nhiều song không dễ thụ hưởng, còn tai họa vì bão lụt do biển gây ra thì lại bạo liệt tàn khốc. Vì thế, dựa vào địa hình, “yếu tố trội” và là yếu tố bảo thủ nhất, biến đổi chậm nhất theo thời gian, cùng với các yếu tố tự nhiên khác như khí hậu, sông ngòi và lớp phủ sinh vật, thì chọn “hướng núi”, dựa vào núi để mà mở nước phải chăng là một sự lựa chọn chẳng đặng đừng vào buổi ấy. Thế rồi, tuy sống trên một bán đảo, ba bề là biển, nhưng “tâm thế lục địa” vẫn lấn át “cảm hứng đại dương”, cho dù trong sâu thẳm tâm thức Việt, cả hai hướng ấy quyện vào nhau. Chẳng thế mà, những lời “nguyện nước thề non” có sức khơi gợi, quyến rũ đặc biệt.

“Non cao đã biết hay chưa,

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”*

Tâm sự của cụ Tản Đà gửi vào hình tượng thơ này đương nhiên không chỉ là núi và biển, mà sâu lắng, hoài vọng, khắc khoải tấm lòng của một tài thơ nằm vắt ngang thế kỷ XIX và thế kỷ XX, chứng kiến thời mất nước tủi nhục, đã biểu đạt cái “buồn chán của một người trượng phu”, theo cách nói của Hoài Thanh. Nhà thơ họ Nguyễn quê ở Khê Thượng, Bất Bạt nay thuộc Hà Tây ấy, đã mượn núi và sông, núi Tản, sông Đà làm bút danh để mà tuyên ngôn một thái độ, một khát vọng

“Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”*

Để mà đau đáu ngóng trông

“Non non, nước nước không nguôi lời thề”*

Chính vì thế mà cái cảm thức núi và biển in rất đậm trong hình tượng thơ của “lời thề non nước”, có sức âm vang của huyền thoại “con Rồng cháu Tiên”. Và rồi, không hiểu ai đó trong những người Hà Nội hôm nay đang băn khoăn, ai là hậu duệ của những người theo cha lên núi, ai là hậu duệ của những người theo mẹ xuống biển, để mà ghi vào trong gia phả của mình sự gắn kết ruột thịt vì cùng chảy trong huyết quản một dòng máu Việt Nam. E rằng câu hỏi đặt ra ấy là ngớ ngẩn , bởi vì không hề có sự tách bạch đó, mà tách bạch để làm gì cơ chứ? Thì chẳng thế sao :

“Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”*

Và rồi chẳng phải chỉ một thi sĩ Tản Đà đã làm xúc động chúng ta hôm nay về biểu tượng núi và biển. Mà thật là thú vị, người nhạc sĩ tài hoa sinh vào năm nhà thơ lớn ấy mất, năm 1939, Trịnh Công Sơn, một tài năng lớn, đã phát triển sáng tạo và huyền ảo biểu tượng núi và biển ấy của nhà thơ đầu thế kỷ XX. Nhà thơ nhạc sĩ ấy đã viết những ca từ xuất thần, những lời thơ tuyệt đẹp :

“Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”

khiến cho những dòng suối “đã khô dòng lệ chờ mong tháng ngày” trong Lời thề non nước của Tản Đànhư róc rách trở lại khi mà

“Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi

Đêm chờ ánh sáng

Mưa đòi cơn nắng

Mặt trời lấp lánh trên cao vừa xa vừa gần”.

Và không chỉ thế

“Người đã đến và người sẽ về bên kia núi

Từng câu nói là từng cánh buồm giong cuối trời”

Để rồi

Trong khi ta về lại nhớ ta đi

Đi lên non cao, đi về biển rộng” **

Non cao, biển rộng được nối liền với nhau bởi những dòng sông, “những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi, suối chảy ra sông và sông chảy ra biển, từ biển sông lại đưa ta trở về với nguồn cội: “từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”. Phải chăng trong tâm thức sâu lắng của những nghệ sĩ lớn, thông qua những xúc động thẩm mỹ đã nói lên được những dự cảm thiên tài có sức gợi mở kỳ diệu. Cảm hứng biển hòa quyện với tâm thế núi. “Sóng bạc đầu va núi chìm sâu”**

Mà quả có thế, trong cuốn sách “Thiên nhiên Việt Nam”, có thể đọc được điều đó: “Mỗi người Việt Nam, dù sống ở đâu, ngay cả ở trên miền núi, hình như bao giờ cũng nghe được tiếng rì rào của biển cả ngày đêm không mỏi vỗ sóng vào bờ. Đấy là vì đất nước ta là một bán đảo có chiều dài lớn gấp bốn lần chiều rộng nhất, do đó mà không có nơi nào ở nước ta lại xa biển hơn 500km theo đường chim bay. Ngay cây rừng cũng mọc rậm rạp hơn ở hướng nhìn ra biển Đông và hướng nhà đâu đâu cũng quay về phía gió biển đến”.

ấy vậy mà cớ sao “cảm hứng đại dương” vẫn bị khỏa lấp, bị lấn át bởi tâm thế lục địa? Hiên ngang đứng trước Biển Đông, một biển phụ lớn đứng hàng thứ ba của thế giới, đón sóng Thái Bình Dương bao la, mà vẫn không có được cái “cảm hứng đại dương” để vươn ra biển, thoát ra khỏi cái thế kẹt “trứng nằm dưới đá”, vẫn cứ tự an ủi kiểu AQ “ta về ta tắm áo ta” thì quả “có vấn đề”!Đã dám khẳng định “có cứng mới đứng đầu gió”, đã mấy nghìn năm thực sự “đứng đầu gió” như vậy. Thế nhưng lại bị cái khung tư duy “ao nhà” thít chặt đầu óc, không dám mở cửa, không dám vươn xa, sợ “say sóng”, tự nhốt mình trong bảo thủ và ươn hèn “dù trong dù đục ao nhà đã quen”.

Chính cái “đã quen” này dập tắt mọi tìm tòi sáng tạo, bỏ lỡ bao thời cơ để đưa đất nước bứt lên... Nhẫn nhục, cam chịu, không dám đổi mới và bứt phá, là nét đặc trưng của con người tiểu kỷ. Từ cách sản xuất cũng như cách sống đều được dẫn dắt bởi chủ nghĩa kinh nghiệm, lại được củng cố bằng phương châm: kế tiếp, làm theo, không thay đổi của đạo đức học Nho giáo. Cung cách ấy bóp chết mọi khát vọng của lớp trẻ muốn thoát ra cảnh “ao tù nước đọng”. Trật tự ấy duy trì tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đánh mất cơ hội phát triển. Thế rồi, cái quán tính bảo thủ và trì trệ xưa kia với những khuyết tật của “con người tiểu kỷ” đã dễ dàng hóa thân vào con người “đạo đức giả”, sản phẩm của giáo điều, bảo thủ và sự áp đặt mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp xa rời thực tế cuộc sống. Nói một đằng làm một nẻo, lựa chiều đón ý để lọt được mắt xanh nhằm dễ bề thăng quan tiến chức, không dám có chính kiến, cũng chẳng có niềm tin, chỉ giỏi ăn theo nói leo, gió chiều nào che chiều ấy, đó là nét dáng quen thuộc kiểu người “đạo đức giả”.

Đời sống càng trì trệ, tính năng động xã hội càng thấp, thì kiểu người này càng có đất dụng võ, làm ô nhiễm thêm đời sống tinh thần xã hội, làm trầm trọng thêm sự trì trệ. Thế nhưng, khi dòng chảy của cuộc sống ào ạt tuôn trào, kiểu người ấy sẽ giống như rác rưởi, váng bẩn cuốn dạt vào hai bên bờ. Tuy nổi lên trên mặt nước, song những thứ đó chỉ có thể nhất thời làm vẩn đục, làm chậm dòng chảy, chứ không chặn được dòng sông cuộc sống. Quyết định tốc độ của dòng sông vẫn là sức cuộn chảy từ bên dưới. Và rồi sức cuộn chảy ấy đã đẩy con thuyền đất nước vượt qua quãng nước lợ pha vị mặn nơi cửa sông, tiến ra biển lớn. “Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau. Ta xô biển lại sóng về đâu”.

Để triển hết gân sức kéo căng cánh buồm thời đại, đón gió đại dương mà lướt sóng, phải dám nhìn lại mình, biết rũ bỏ những khuyết tật và yếu kém của chính mình. Đấy là bản lĩnh của người biết chủ động đón nhận thách thức, biến thách thức thành vận hội để đưa đất nước bứt lên, rửa cái nhục của nước nghèo và kém phát triển. Những ai chần chừ tin rằng tương lai sẽ là sự tiếp tục đơn thuần của quá khứ, sẽ cảm thấy mình bị hụt hẫng trước sự thay đổi mà có lẽ đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi. Biển cả sẽ quật ngã và loại bỏ kiểu người “tiểu kỷ” và “đạo đức giả” dễ say sóng. Từ cái ao nhà chật hẹp tù túng, vứt bỏ thói quen trì trệ bảo thủ để vươn ra biển là con đường của phát triển, mở ra một chân trời mới, thoát ra khỏi thân phận “trứng nằm dưới đá”. Đi về phía biển, có can trường lướt sóng ra khơi phải là cảm hứng Việt Nam, để từ đó tìm ra một giải pháp đi tới cho Việt Nam, một giải pháp Việt Nam.

“Biển sóng, biển sóng...

Bao năm chờ đợi sóng gần ta…”**. Đúng là đã bao năm chờ đợi. Đi về phía biển là đi tìm một chân trời. Lịch sử đã từng ghi nhận bản lĩnh mở đường, đi về phương Nam của Nguyễn Hoàng thế kỷ XVII. Bản lĩnh đó được bật dậy từ một tầm nhìn. Đúng vậy, “một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ tìm kiếm những vùng đất mới, mà ở chỗ cần có đôi mắt mới”, câu nói ấy của Marcel Proust, văn hào Pháp gợi mở một chân trời. Đôi mắt của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn ra cái thế chiến lược của việc mở nước về phương Nam, hướng ra biển từ dải Hoành Sơn, tạo ra một thế phát triển mới. “Vạn đại dung thân” là gì, nếu không phải là thấy chiến lược bừng sáng trong đầu về một chân trời mới mở rộng ra trước mắt, không phải cho một đời Nguyễn Hoàng, mà cho ngàn ngàn đời một dân tộc thường xuyên đi tìm lối thoát khỏi một vị thế địa dư trứng nằm dưới đá ?”*** Tầm nhìn chiến lược, xuyên lịch sử, xuyên không gian và thời gian từ đôi mắt của bậc danh sĩ thế kỷ XVI, cùng với bản lĩnh và sự nghiệp của người anh hùng đi mở cõi Nguyễn Hoàng, đã khởi đầu cho một chuyển đổi tâm thế dân tộc : hướng ra biển.

Không có đôi mắt ấy, không có bản lĩnh ấy, không thể có giang sơn gấm vóc liền một dải của Tổ quốc ta hôm nay, hiên ngang đứng trước biển, chống trả mọi thách thức. Thách thức từ biển, từ trời và thách thức từ người. Thách thức từ biển, từ trời thì bạo liệt, từ người thì nham hiểm, đều khó lường cả. UNDP và Hội nghị Bali vừa qua cảnh báo hiểm họa nước biển dâng do sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Đức Khổng Tửthì cách đây mấy ngàn năm đã cảnh báo hiểm họa từ lòng dạ của con người “Thị khả nhẫn dã, thục bất khả nhẫn dã”, tạm dịch là “Việc nhẫn tâm ấy làm được, thì việc gì mà không nhẫn tâm làm” [Luận Ngữ. thiên Bát Dật]. Mà ngẫm kỹ ra, chuyện nước biển dâng cũng là do lỗi lầm của con người, thục bất khả nhẫn dã! Chẳng phải chỉ đức Khổng dạy từ hàng ngàn năm trước, gần hơn, giữa thế kỷ XX Fucik, người chiến sĩ cách mạng Tiệp Khắc đã từng khuyến cáo “Hỡi người, hãy cảnh giác”. Cảnh giác đây cũng lại là cảnh giác với người! E rằng phải ôn lại chuyện Sơn Tinh -Thủy Tinh biểu thị ý chí chống lại sức tàn phá đến từ biển từ trời, đồng thời phải ôn kèm chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy để mài sắc tinh thần cảnh giác chống lại thủ đoạn nham hiểm của người.Một lần nữa, lại thấy sự gắn quyện giữa núi và biển. Sóng biển dâng thì ta có núi.

“Biển nhớ tên em gọi về. Trời cao níu bước sơn khê... Biển có bâng khuâng gọi thầm. Bàn tay nghe ngóng tin sang. **

Tin đến từ biển hay từ núi. Chắc cả hai.

Ngày mai em đi. Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ. Sỏi đá trông em từng giờ.

Ngày mai em đi. Biển nhớ em quay về nguồn Gọi trùng dương gió ngập hồn. **

Nghe đâu ở Cổ Loa, các nhà khảo cổ vừa tìm ra xưởng đúc mũi tên ba cạnh, khẳng định lại cơ sở hiện thực của truyền thuyết nỏ thần trong chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy. Xưởng đúc ấy nằm ngay giữa tòa thành Cổ Loa. Và chính chàng Trọng Thủy dụ được nàng Mỵ Châu lẻn vào lấy cắp “nỏ thần” do thần Kim Quy ban cho An Dương Vương. Mỵ Châu bị vua cha chém bên bờ biển, máu chảy xuống nước kết thành ngọc trai. Ngọc sẽ rực sáng lung linh khi rửa bằng nước của giếng Trọng Thủy đã trẫm mình vì xót xa thương vợ, vì ân hận về việc mình làm. Giếng Trọng Thủy vẫn cón đó, dấu tích của chuyện tình oan trái éo le!

Vì thế mà bài báo Tết này đành dừng lại ở đây thôi :

Nửa bóng Xuân qua ngập ngừng

Nghe trời gió lộng mà thương! **

GS TƯƠNG LAI

- - - - - - - - - - -

*Thơ Tản Đà

**Ca từ nhạc Trịnh Công Sơn

*** Cao Huy Thuần. Thế giới quanh ta. NXB Đà Nẵng. 2006. tr.356

ANHTHU