Tâm tư những ngọn đèn đường

Xã hội - Ngày đăng : 14:14, 10/12/2007

(HNMĐT) - Dọc những con đường Hà Nội thường có những ngọn đèn đường thức thâu đêm từ ngày này sang tháng khác, suốt chiều dài thời gian bốn mùa không thay đổi.

(HNMĐT) - Dọc những con đường Hà Nội thường có những ngọn đèn đường thức thâu đêm từ ngày này sang tháng khác, suốt chiều dài thời gian bốn mùa không thay đổi.

Những ngọn đèn bị giảo hình nhưng không kêu ca, chúng cứ yên lặng làm nhiệm vụ một cách bền bỉ, nhẫn nại, mặc dù người đời thường vô tình, không ai đoái hoài khen lấy một lời bao giờ. Người ta cứ vô tình nhờ chúng như một lẽ đương nhiên của sự đời mà không biết rằng chúng cũng có tâm hồn, biết suy nghĩ, đêm đêm tỏa ánh sáng nhưng cũng tỏa lời tâm sự ra với nhân gian, mà lời tâm sự ấy thường rơi vào tĩnh lặng, không một lời đáp, còn thua chiếc lá vàng cạnh đó, rơi xuống lòng đường, có người nào đó thương hại, hoặc có chiếc chổi của chị công nhân vệ sinh môi trường đưa nó vào nghĩa trang lá- là chiếc xe goòng đẩy tay kia...

Chẳng lẽ những ngọn đèn đường cứ âm thầm cô đơn ngày này sang ngày khác một cách bất công thế ư?

Không hẳn thế, bởi một đêm kia, có ai đó nhớ lại đã có lần, mà nhiều lần, gặp gỡ và chia sẻ cùng ánh sáng một quầng bao đêm trường lướt qua cuộc đời mưa gió của mình, chỉ có đèn đường cùng chung niềm an ủi...

Đó là những con người thuộc tầng lớp thấp nhất đi trong cuộc đời mà rất ít niềm vui, chỉ nhiều lao khổ.

Chị gái ơi, đêm nào chị cũng phải vặn mình đến vẹo xương sườn để lia đi cái chổi dài, dài như đêm tối mênh mông, chị bắt đầu chấm dứt công việc dưới ánh đèn đường nhợt nhạt sức khoẻ những đêm mù sương và những giờ phút đất trời mưa giókhiến người trong những căn phòng đèn xanh đèn đỏ ấm êm kia còn phải não lòng, mà chị cùng ngọn đèn đường đồng hành trong tê tái, chỉ có bóng cây đổ dài chung niềm thổn thức...

Người phụ nữ lam lũ, cặm cụi suốt ngày mà chẳng bao giờ đủ ăn vì phải lo cho đàn con bé dại miếng ăn cái mặc và những đồng tiền oan uổng phải nộp vào đủ các thứ quĩ ở trường học, đêm nào chị cũng phải đẩy cái xe đạp thồ, loại xe không chuông không phanh, không chắn bùn, chắn xích, chỉ thêm cái tay ngai như xe thồ gạo trên đường ra trận Điện Biên năm nào, nhưng ở đây là thồ rau từ mấy làng nào đó ven đô đi vào thành phố, mà người ta tạm gọi là chạy chợ, những loại rau mát lành màu xanh làm ngon miệng người dân đô thị, từ rau cải canh, cải trắng, rau bí ngô sợi dài, rau dền tía đỏ lự, rau muống non búng, chiếc bắp cải cuộn tròn chắc nịch như để ngủ quên vết dao cắt dưới gốc, củ xu hào bánh xe sẽ lăn vào những căn bếp ấm cúng, quả cà tím thành nồi cà bung lạ miệng, những bông hoa thiên lý vừa là hoa thơm cũng vừa là để nấu bát canh chiều hè đầy ý vị, mớ rau ngót mỗi chiếc lá là một con mắt màu xanh biếc, trước khi vào nồi thành món canh cá rô đồng ngọt thơm, ngọt mát, những con mắt gầy còm bị vò nát nhàu như tâm sự không được sẻ chia mà chỉ nhận về mình lời hắt hủi…

Bao nhiêu thứ ngon ngọt ấy lúc nào đó, đêm nào đó, dừng lại dưới chân cột đèn, người nghỉ, xe nghỉ và nhận lời vuốt ve bằng ánh sáng mệt mỏi vào giờ khuya khoắt, khi con vạc tìm ăn đêm đã trở về, khi những chiếc xe tải siêu trường siêu trọng đã đi được mấy vòng chuyển…

Cô gái lạc loài, em nhỏ lang thang, nhà các em đâu, lối về là khu vực nào? Sao bao nhiêu đêm các em cứ dừng lại dưới ngọn đèn vàng vọt này mà âm thầm cúi mặt thở dài, đèn có chia sẻ chút nào, khi đèn và các em cùng chung nỗi khổ đâu, người thì lang thang, kẻ thì chôn chân một chỗ nhưng ít có niềm thông cảm nào chìa tay ra nâng đỡ?

Đêm hội tưng bừng hay giao thừa hớn hở, đèn đường soi tỏ mặt người, hồng lên như màu rượu chín, như màu tình yêu đắm say, đèn đường có vui thêm chút ít? Có ai đó đứng dựa lưng vào cột đèn, tay khoanh trước ngực, một gót chân ghếch lên chỗ xi măng đắp nổi…anh ta đang chờ đấy, anh ta đang nhờ đèn đường soi tỏ đường đi của con tim lẻ bạn, hẳn là đèn đường cũng hạnh phúc khi làm một việc cụ thể là chỉ lối cho cô gái nhìn rõ anh và anh tìm thấy cô gái trong đám đông kia…Việc có ích lắm, có ích còn hơn cả lúc người ta nhờ đèn đường mà tìm ra tên đạo chích lên lỏi trong bóng tối…

Vào hè, thời gian thiếu điện, có những cô cậu học trò phải mang sách ra chân cột đèn nhờ ánh sáng từ cao rót xuống mà ôn thi, những giọt ánh sáng sao mà quí báu, dù sao đèn đường cũng sáng hơn con đom đóm trong vỏ trứng của người xưa ôn bài kinh sử…

Mùa hè, trong chật chội và nồng nặc những ô buồng như chuồng chim, bao nhiêu tấm lưng trần phải mang theo chiếc ghế xếp ra đây nhờ ánh đèn kèm theo chút gió trời lang thang, để tạm quên giây phút cái oi nồng ngột ngạt. Phải qua nửa đêm, khi sương bắt đầu xuống, cái ngủ mới giục con người vác ghế xếp trở về, để mặc đèn đường lại một mình trong đêm ve kêu và gió lặng.

Mùa đông gió gào rú trên mái cây, ai cũng vội vàng kéo cao cổ áo để về nhà trong chăn ấm đệm êm, những con người giàu sang ban ngày lúc nào cũng áo trắng tinh, cổ cồn sạch sẽ, ăn nói ra chiều kẻ cả, đêm về thì đã có sẵn các món sơn hào hải vị trên bàn đêm , tắm trong buồng tắm gương kính sáng choang, bồn nước có pha nước hoa thơm nức, những con người này chắc cả đời cũng không biết đến ngoài cửa xế bên kia ngã tư, có những ngọn đèn đêm thức tới sáng, lặn lội còn hơn cả thân con cò, hơn cả goá phụ đông con, hơn cả chị gồng thuê gánh mướn nơi xóm chợ là những ngọn đèn lam lũ cùng người lam lũ, mà đêm đông, có mấy chị em cô gái nhỏ bê hộp than hồng ra đó, chung vai chụm đầu làm món ngô nướng bán cho khách qua đường, mà nguồn sáng duy nhất để các cô quạt luôn tay bằng chiếc quạt nan rách, lật giở từng bắp ngô non đến khi hàng hạt ngô ngà kia có ai quét một nét mực tàu đen nhánh các cô mới đưa cho khách…tất cả đều nhờ vào ánh sáng của con mắt đèn cứ lửng lơ giữa bầu trời đêm mà rọi xuống một cách vô tư và hào phóng.

Trong đám khách dừng chân nửa phút để ăn món quà ngon tuyệt vời mà rẻ nhất trần đời ấy, có bao giờ ngọn đèn đường nhìn thấy một gương mặt thế kỉ không, đó là người nhạc sĩ tài hoa lừng danh là mỗi thế kỉ may ra mới có một người như ông, người đã viết nên khúc “Diễm xưa”, “Hạ Trắng”, “Hà Nội mùa thu” có con chim sầm cầm vỗ nắng mặt trời. Có thể có một lần ngọn đèn đường đã soi vào đôi mắt kính kia nhưng đèn đâu có biết trong vừng trán đầy vết suy tư ấy vừa loé lên một nét nhạc thần kỳ để lưu lại cho đời âm vang mãi mãi. Người nhạc sĩ họ Trịnh ấy đã ra đi, đã tìm đến một ánh đèn đường nào trên con đường mù mịt của hư không âm thể. Bên dòng sông Lê Thê đầy quỉ sứ Diêm vương ấy, ngọn đèn nào soi cho ông lối về với tình yêu và tri âm tri kỉ hay là ông cứ vất vưởng nỗi đọa đầy như trên dương thế từng bị đoạ đầy (mà cả nhân loại này bị đọa đầy chứ riêng gì một họ Trịnh). Văn nghệ sĩ thường lang thang cùng đêm như Trịnh lắm. Có một giọng ca cũng thuộc loại thế kỉ, chắc nhiều lần ông bỏ nhà để đi vào những ngã tư có đèn đường liu riu, có đèn đường ảo giác, và ông đã gặp hồn họ Trịnh, nên người đời quen nghe ông hát nhạc Trịnh. Đó là tài tử Ngọc Bảo, một trong những người hát nhạc Trịnh hay nhất, tiếc sao, ông vừa rời bỏ tất cả những ngọn đèn đường để đi tìm Trịnh. Chắc người viết bài hát và người hát bài hát đã gặp nhau. Không hiểu họ có bắt tay nhau dưới một ngọn đèn nào đó không, hay họ ôm choàng lấy nhau trong sương khói nhẹ nâng của hồn ma siêu thoát?

Trịnh Công Sơn đã về với những ngọn đèn mê ảo, làm ta nhớ đến một tài hoa khác, người đi trước Trịnh cả một đoạn dài thời gian mà đến nay chắc hai người cũng đã gặp nhau, cả giọng ca Ngọc Bảo, họ cùng nâng ly rượu sum vầy trong cõi hư không khiến chúng ta trong cõi này nhớ tiếc họ với đầy lòng trắc ẩn. Đó là Văn Cao, người thanh niên Hải Phòng, vào năm đầu thập kỷ bốn mươi thế kỷ hai mươi, từ Hải Phòng tìm về Hà Nội, suýt chết đói vì thất nghiệp, chàng trẻ tuổi đã đi lang thang nhiều đêm với cả bụng rỗng và cái túi rỗng không nhưng trái tim thì chan chứa.

Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa

Chập chờn ảo hoá tà ma...

Đó là hai câu thơ trong bài “Chiếc xe xác đi qua phường dạ lạc” mà Văn Cao đã viết khi chàng ngụ tại phố Mongranđ, nay là phố Nguyễn Thượng Hiền, gần hồ Thiền Quang, có nẻo dẫn về ngả Khâm Thiên tọa lạc một thời. Ngọn đèn đường nào đã soi vào tấm thân gầy như con cò đi ăn đêm ấy, một thân cò phải lận đận một đời cả khi vinh quang trên đỉnh Quốc ca thuộc về ông.

Những “bóng tối âm thầm rụng xuống thân cây” là cảm hứng của Văn Cao khi ông đi trong ánh tù mù lơ lửng của những ngọn đèn đêm thiếu điện và phòng thủ chống máy bay Mỹ tìm quân Nhật mà thả bom…Cũng trong giai đoạn này, ông còn gặp nhiều ngọn đèn đường khác ở nhiều con phố khác, từ nhà ông ra ga Hàng Cỏ, lên hồ Hoàn Kiếm để hoài thai ra khúc quân hành mà ông gọi là Tiến Quân Ca, để trở thành Quốc ca…Trong bài hát không có ánh đèn đường, nhưng bản thân bài hát đã thành ngọn đèn hành quân suốt từ bấy đến giờ và chắc còn toả sáng đến mai sau nữa…

Những ngọn đèn đường vẫn còn đây đó. Nhưng một Văn Cao, một Ngọc Bảo, một Trịnh Công Sơn đã rời bỏ chúng để về nơi cực lạc. Chúng ta chia sẻ và an ủi những ngọn đèn vẫn đang bị giảo hình một cách cô đơn, chúng ta càng thương nhớ những người rời bỏ ánh đèn để đi vào mù mịt như một Đoàn Chuẩn, một Chế Lan Viên, một Nguyễn Bính, một cô ca sĩ Lê Dung, một bà có giọng ca trù ma quái Quách Thị Hồ và bao nhiêu tài năng khác…

Đèn đường ơi, các người không cô đơn chút nào đâu. Cuộc đời này biết công lao của những người vô danh và câm nín như các người. Hãy yên lòng tỏa sáng!

Băng Sơn

LANHUONG