Thị trường tinh dầu, hương liệu: Bỏ quên “vàng xanh”
Xe++ - Ngày đăng : 09:14, 02/12/2007
“Mỏ vàng” bị bỏ quên
PGS Đinh Xuân Bá, Chủ tịch HĐQT Cty Secoin, một trong những nhà nghiên cứu, sản xuất hàng đầu về trầm hương nói riêng,tinhdầu nói chunghiệnnay,chobiết: - Thị trường thế giới có nhu cầu ngày càng lớn về tinh dầu, đặc biệt là loại dùng trong hương trị liệu và trong công nghiệp mỹ phẩm. Đơn giá nhập khẩu tinh dầu thế giới tăng đều từ năm 2002 đến nay, khoảng 18% mỗi năm, tương đương 1,376 tỷ USD. Trong khi đó, Việt Nam mới xuất khẩu tinh dầu sang khoảng 30 nước trong số 167 nước nhập khẩu tinh dầu, chỉ chiếm 1,16% về số lượng và 0,6% về giá trị thị phần tinh dầu toàn cầu bởi đơn giá quá thấp, chỉ bằng 1/2 mức trung bình toàn cầu, đồng thời trung bình mỗi năm phải tăng thêm 8,1 triệu USD nhập khẩu hương liệu.
Bà Vũ Hải Vân, Giám đốc kinh doanh Công ty cổ phần Tinh dầu và Chất thơm cho biết: - Hiện cả nước có khoảng 10 doanh nghiệp xuất khẩu tinh dầu nhưng số lượng rất hạn chế. Mỗi năm chúng tôi cũng chỉ xuất khẩu được khoảng 5 triệu USD, chủ yếu là tinh dầu xả, quế, hương nhu, bạc hà...
Trung Quốc và Ấn Độ có sản lượng và xuất khẩu tinh dầu - hương liệu lớn nhất thế giới nhưng hiện nay cũng phải nhập tinh dầu.
Các thị trường nhập khẩu tinh dầu chính trên thế giới mấy năm gần đây: 1. Khối 25 nước EU: 1,7 tỷ USD; 2. Mỹ: 1,2 tỷ USD; 3. Pháp: 0,7 tỷ USD; 4. Anh: 0,6 tỷ USD; 5. Nhật: 0,4 tỷ USD.
Rất sẵn “vàng thô”
Việt Nam là một trong những nơi trồng cây chiết xuất tinh dầu thuận lợi nhất. Theo PGS Đinh Xuân Bá, nguồn cây nguyên liệu chiết xuất tinh dầu khá dồi dào, như: Bạc hà, hương nhu, bạch đàn, húng quế, hoắc hương, quế, hồi, sả... Đây có thể coi là nguồn cung “vàng thô” không phải nước nào cũng có được. Các cây có tinh dầu rất dễ trồng, không cần nhiều công sức, không sợ bị úng lụt hay khô hạn, ít mắc sâu bệnh, đặc biệt là giá trị cao hơn hẳn so với ngũ cốc. Không chỉ như vậy, cây tràm Ô-xtrây-li-a và bạch đàn chanh đang được nhân rộng ở một số tỉnh miền Trung còn có tác dụng chống rửa trôi, phủ xanh đất trống đồi trọc, cho thu hoạch liên tục 6, 7 năm. Cũng theo ông Bá, Việt Nam có đến 300 loài cây cho tinh dầu đã được thu thập, nhưng chỉ 50 loài cây đã được trồng mang tính sản xuất hàng hóa, với diện tích khiêm tốn.
Hiện tại, cả nước mới chỉ có khoảng vài trăm ha nguyên liệu cho các cây nguyên liệu mới như sả chanh, bạch đàn chanh, tràm rải rác ở các tỉnh Hòa Bình, Lạng Sơn, Phú Yên, Hà Tĩnh...
Công nghệ “khai vàng”
Phát hiện “mỏ vàng” là một chuyện, khai thác thế nào lại là chuyện khác. - Vấn đề mấu chốt là phải tạo ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn hoàn toàn tự nhiên (organic) của thế giới. Quy trình này được thiết lập từ khâu trồng trọt, chăm bón, thuhoạch, đến khi ra sản phẩm tinh dầu. Không có tiêu chuẩn organic, rất khó tham gia thị trường thế giới, ngược lại giá sẽ cao gấp 2-3 lần hiện nay. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp xuất khẩu tinh dầu của Việt Nam quy mô còn nhỏ. Trong khi đó, muốn đạt tiêu chuẩn organic, phải xây dựng được vùng nguyên liệu, đầu tư thiết bị, tổ chức hướng dẫn cho bà con nông dân và đặc biệt là thuê tư vấn làm chứng chỉ (tiêu tốn khoảng 10.000 - 12.000 USD). - PGS Đinh Xuân Bá cho biết.
Lợi thế của Việt Nam là một số tinh dầu mang tính chất đặc hữu như quế, hồi nhưng do chưa có tiêu chuẩn nên giá trị xuất khẩu chỉ bằng một nửa trong khi nhu cầu trên thị trường thế giới rất lớn. Đặc biệt, tinh dầu quế có thể tận dụng chiết xuất từ cành lá tỉa hằng năm. Còn theo TS Nguyễn Văn Nghi, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển các sản phẩm tự nhiên (SPTN), Cty Tinh dầu và các SPTN (Viện KH-CN Việt Nam), vấn đề cơ bản đối với sản xuất tinh dầu hiện nay là tìm hiểu xem nhu cầu của thế giới và đâu là những loại tinh dầu Việt Nam đang có ưu thế mà thế giới cần; thứ hai, xem những loại tinh dầu nào của Việt Nam có ưu thế nhưng nhu cầu trên thị trường thế giới chưa nhiều để từ đó đẩy mạnh các nghiên cứu ứng dụng với các loại tinh dầu này và tiếp thị ra thị trường thế giới. Thứ ba, ứng dụng khoa học công nghệ vào việc chiết xuất các loại tinh dầu.
Hiện nay, một số doanh nghiệp đã đưa một số giống mới vào trồng như bạch đàn chanh, vông vang, cọc rào... những cây cho tinh dầu có giá cao trên thị trường thế giới nhưng cần phải tính toán kỹ bởi một sản phẩm có thể có giá trị về khoa học hoặc giá trị sử dụng song nhu cầu cólớnhaykhônglạilà một vấn đề. Ông Nghi ví dụ: - Chẳng hạn, trồng cây cọc rào để chiết xuất dầu diesel sinh học, về mặt khoa học, là giải pháp tốt nhưng phải xem xét tính ứng dụng vì nếu tính chi phí phải ở mức 32.000 đồng mới được một kg dầu, giá thành quá cao.
Tương tự, cây dó bầu cũng đang được trồng với một diện tích rất lớn. PGS Đinh Xuân Bá, người dày công nghiên cứu về trầm hương,cũngkhẳngđịnh: - Việt Nam có giống dó quý nhất nhưng cây dó mới chỉ là nguyên liệu đầu vào. Một loạt vấn đề đang đặt ra với cây dó: Kiểm soát nguồn giống, kỹ thuật trồng, phương pháp tạo trầm (hiện tại vẫn chưa có giải pháp tối ưu), công nghệ chế biến sau thu hoạch...
Tuy nhiên, thông tin mà các chuyên gia đều khẳng định là nguồn “vàng xanh” mỗi năm có thể mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD, ngoài ra có thể trở thành nền tảng cho sự phát triển của ngành công nghiệp mỹ phẩm ở Việt Nam rất đáng lưu ý.
Trung Nguyên