Hồ Dzếnh – một chân trời cũ lặng lẽ

Xã hội - Ngày đăng : 16:00, 29/10/2007

(HNMĐT) - Có một quãng thời gian khá dài, trên đường phố Hà Nội không đông lắm, người ta bắt gặp một người đàn ông dong dỏng cao, luôn mặc bộ âu phục hơi xám, phẳng phiu, đầu có khi đội mũ phớt có khi không, cứ im lặng thong thả dạo bước trên từng hè phố với dáng vẻ ung dung, thanh thản, hình như không suy nghĩ gì mà cũng hình như đang mải nghĩ suy gì lao lung lắm.

(HNMĐT) - Có một quãng thời gian khá dài, trên đường phố Hà Nội không đông lắm, người ta bắt gặp một người đàn ông dong dỏng cao, luôn mặc bộ âu phục hơi xám, phẳng phiu, đầu có khi đội mũ phớt có khi không, cứ im lặng thong thả dạo bước trên từng hè phố với dáng vẻ ung dung, thanh thản, hình như không suy nghĩ gì mà cũng hình như đang mải nghĩ suy gì lao lung lắm.

Khuôn mặt xương xương, gò má cao, nước da hơi xạm như được nhuộm qua nhiều sương gió đường trường vạn dặm rỗ cả gót kỳ khu (nói như ôn Như Hầu)... Sau mới biết người đàn ông im lặng ấy là nhà thơ nổi tiếng một thời Hồ Dzếnh... Giai đoạn này Hồ Dzếnh im lặng trên đường phố mà cũng lặng im trên thi đàn.

Sau năm 1954, Hồ Dzếnh viết vở kịch ngắn “Đi hay ở?” để nói về cuộc dồn dân di cư vào Nam của quân Pháp, rồi ông im lặng luôn, hao hao giống nhà văn Sao Mai sau khi viết phóng sự về việc di cư với bài “Trại di cư Pa Gốt” cũng im lặng, cứ như truyện kiếm hiệp “rửa tay gác kiếm”. Hình như thời thế lúc đó không phù hợp với loại ngòi bút này.

Người viết bài này còn nhớ, vào khoảng đầu những năm 60, thời gian tôi chuyên làm thơ, được họa sĩ Đỗ Thịnh giới thiệu, tôi đến phố Trần Quốc Toản (tên cũ là phố Reinach) để mua một chiếc máy chữ cũ. Tưởng người bán là ai, không ngờ chính là Hồ Dzếnh. Một chiếc máy chữ xách tay hiệu Baby, hộp vuông. Không hiểu sao một nhà văn lại bán đi chiếc máy chữ của mình dù rằng đó là loại máy chữ không có dấu chữ quốc ngữ, nghĩa là thiếu các dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã...? Phải chăng vì ông đã thay một chiếc máy tốt hơn, có dấu hay vì ông không viết văn nữa, đã chán viết? Tôi mua máy mà không dám hỏi, khi chính bản thân còn đóng kịch, diễn vở kịch “Mẹ Việt Nam” trích trong cuốn thơ “Hoa xuân đất Việt” của Hồ Dzếnh. Nhưng Hồ Dzếnh thì lại không biết tôi là ai, cũng là điều càng tốt trong chuyện chiếc máy chữ.

Tuy nhiên, tôi còn biết bà Hồng Nhật, vợ góa của cố thi sĩ Trần Trung Phương, người làm thơ cho thiếu nhi khá hay, với chủ trương rất mới lúc bấy giờ “chơi mà học, học mà chơi”, nhưng tiếc sao thi sĩ mất quá sớm, mà sau này vì cùng hoạt động nội thành, cảm thông đồng cảnh, Hồ Dzếnh cùng bà Hồng Nhật đã làm lại cuộc đời với nhau làm nhiều người vui sướng vì đúng là “trai tài gái sắc”. Sở dĩ tôi biết bà Hồng Nhật vì bà có một cửa hàng sách kiêm bán một số đồ dùng văn phòng và mỹ phẩm ở ngã ba phố Huế - phố Trần Quốc Toản, gọi là hiệu sách Bình Minh, một cửa hàng xinh xinh, ngăn nắp, sáng sủa và đẹp đẽ, đẹp như chính chủ nhân và cũng đẹp như khuôn mặt cô gái ngồi bán hàng tên là An người phố Lê Văn Hưu (mẹ cô là bà Loan ở phố ấy từ khá lâu, có quen với gia đình họ vợ tôi). Không những thế, Hà Nội vào thời điểm này, cái gì cũng ít ỏi, tôi làm thơ thì không thể sống nổi. Tôi còn đi dạy học và có nghề tay trái là làm ra những tấm bưu thiếp, đem gửi bán ở nhiều hiệu sách, trong đó có hiệu sách Bình Minh nên quen bà Hồng Nhật, vào tuổi đàn chị. Ngoài ra, lớp thanh niên lúc đó thường kháo nhau “Hà thành có vài ba người phụ nữ cực đẹp, đáng để chiêm ngưỡng”, đó là bà Vượng - người đứng bán sách ngoại văn ở Tràng Tiền, bà Hồng Nhật - chủ hiệu sách Bình Minh... Phải nói thêm một chút, thanh niên biết vậy, biết bà Vượng là phu nhân nhà nhiếp ảnh Lê Vượng, biết bà Hồng Nhật là vợ nhà thơ Hồ Dzếnh... nhưng nhiều cậu lâu lâu vẫn đảo qua các phố ấy, ngắm các bà giây lát thôi, ngắm một cách kính cẩn, một cách tôn thờ như em ngắm chị, như ngắm một pho tượng thánh chứ hoàn toàn không có ý gì vẩn đục, bờm xơm, đó cũng là tính cách của con trai Hà Nội nhiều thời.

Trở lại chuyện Hồ Dzếnh, ông ở ngay tại căn gác hẹp của hiệu sách này, cứ như một cái tổ chim. Không ai nhìn thấy ông đứng bán sách bao giờ. Và có khi ông đã thành chiếc bóng của bà Hồng Nhật, hoặc cũng là cái bóng của chính mình, bóng của nhà thơ nổi tiếng một thời, khiến Thạch Lam cũng phải tự nguyện viết lời tựa cho cuốn sách đầu tiên của họ Hồ. Một lần Thạch Lam đi tàu lửa từ Hà Nội về Cẩm Giàng thăm mẹ là bà cụ Thông Nhu, tình cờ phát hiện ra người ngồi bên cạnh là Hồ Dzếnh đang đọc tập bản thảo chưa in của chính mình, đó là cuốn tự truyện “Chân trời cũ”, một cuốn sách đã từng làm nao lòng không biết bao nhiêu người, gây ấn tượng cảm thương ngậm ngùi, pha thêm một chút bi thương về thân phận những nhân vật trong truyện. Nó nổi tiếng ngay rồi bị hắt hủi một thời gian dài và sau này, như rượu ngon càng để lâu càng nồng thơm, cuốn truyện có vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam. Cuốn truyện được viết ra bởi một người, cha Trung Hoa, mẹ Việt Nam, sinh ra ở Thanh Hóa, lớn lên phiêu bạt mười phương rồi nằm xuống yên giấc ngàn thu ở Hà Nội.

Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều người Trung Hoa chạy loạn sang Việt Nam, rồi lấy Việt Nam làm nơi cư trú lâu dài. Một buổi chiều nọ, có người đàn ông Tàu vai đeo tay nải, đến Thanh Hóa thì dừng lại, gọi con đò qua bến Ghép với cái giọng líu lo “t...ò ò...ui...”. Không hiểu sao cô gái lái đò vẫn nghe thấy và quay đò lại đưa khách sang sông và rồi sau này nên duyên chồng vợ. Đó chính là cha và mẹ của nhà thơ Hà Triệu Anh đọc theo âm Quảng Đông là Hồ Dzếnh sau này.

Cuộc đời Hồ Dzếnh còn để lại độ mươi cuốn sách, không nhiều như một số nhà văn khác, nhưng ấn tượng về thơ Hồ Dzếnh rất sâu đậm, ai đọc một lần là không thể nào quên được.

Ông từng có những câu thơ như triết lý nhưng nhẹ nhàng, thâm trầm, chỉ như tiếng thở dài không âm vang, không đao to búa lớn mà vẫn cứ tạo ra bâng khuâng thiên cổ. Ấy là câu thơ nói về người con gái lỡ hẹn, đã hẹn mà không đến:

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Tôi sẽ trách, cố nhiên, nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi em hãy gắng quay về
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa...


Tưởng chỉ là nhẹ nhàng thế, nhưng Hồ Dzếnh cũng yêu đến... có thể chết khi ông viết:

Trời đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca tiếng sáng rộn ven tường
Có ai trong cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương
...
Giữa một giờ thiêng tình rất đẹp
Rất buồn và rất, rất thanh thanh
Mày ai bán nguyệt người ai nhỏ
Em ạ yêu nhau chết cũng đành


Và, ông yêu đời đến nỗi ngay từ lúc mới trên 30 tuổi đã tự tưởng tượng ra cảnh mình nằm trong quan tài, nghé mắt ra ngoài, tủi thân vì thấy đời vẫn rộn rã ở ngoài đó, ông viết:

Ta toan giận dỗi xa đời
Chợt hay khăn liệm quanh người vẫn thơm
Nát thân không nát nổi hồn
Lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau


Đã có rất nhiều người nói nhạc sĩ Đoàn Chuẩn là “con chim của mùa thu” vì hầu hết các bản nhạc của ông đều viết về thu. Còn Hồ Dzếnh thì được gọi là “thi sĩ của buổi chiều”, mặc dù ông chỉ có một bài thơ về buổi chiều - “Màu mây trong khói” (năm 1943)- mà nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc, trong 6 tháng mới xong, đặt tên bản nhạc là “Chiều”, đã vang lên trên sóng điện, trong nhiều lầu son ca hát và trong lòng người nhiều thập kỷ.

Không hiểu Hồ Dzếnh là người Việt Nam thuần túy, nhìn cây nhìn mây của đồng bằng Việt Nam mà cảm xúc hay trong cân não kia có chút gì nghĩ đến quê cha, một quê hương ở tận đẩu tận đâu, ông không hề biết, vì thế nó còn mông lung hơn, hoài niệm hơn, ảo mộng hơn và cũng nghi ngút hơn? Không ai biết. Có người hỏi nhạc sĩ Dương Thiệu Tước “có phải bản nhạc của ông làm cho Hồ Dzếnh nổi tiếng?” thì nhạc sĩ họ Dương đáp rằng, chính bài thơ làm cho nhạc sĩ thơm lây vì bài thơ quá hay, hoàn chỉnh, nhất là “nỗi hồn” trong đó, nhạc sĩ chỉ là người phụ họa. Có lẽ ông Dương Thiệu Tước có phần khiêm tốn. Thực ra thơ đã hay mà nhạc càng hay, nó vượt qua không gian và thời gian vì có những tâm hồn như thế, chứ không “lục cục lào cào, đá lở đất nhào” sống sượng như một số bài thơ, bản nhạc mang danh, mạo nhận là hiện đại bây giờ... Bài thơ chỉ có 13 câu:

Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây.


Một đời lận đận lao đao, từng lâm vào hoàn cảnh thê lương, vợ trẻ mất để lại đứa con trứng nước mới 4 tháng tuổi, Hồ Dzếnh phải địu trên lưng đi xin sữa cho con bú chực suốt nhiều tháng qua bao dặm đường Thanh Hóa. Ông là một trong những người sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam nhưng bị lãng quên, đi làm thợ sửa toa xe lửa một cách âm thầm. Bàn tay cầm bút kia sao cầm được búa?

Đọc văn xuôi Hồ Dzếnh ta cứ như lạc vào cánh đồng xáo xác gió heo may, cờ lau nghiêng ngả và con thuyền bập bềnh không biết thời gian. Ta nhớ đến người cha Hồ Dzếnh - một người đàn ông Trung Hoa chưa nói sõi tiếng Việt, đêm đêm nhớ nhà, ngâm bài thơ Đường “Phong Kiều dạ bạc” (Đêm đỗ thuyền bến Phong Kiều) của Trương Kế:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên...

dịch ra là:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ...


Đôi vợ chồng Việt- Hoa ấy có một đàn con, ăn nên làm ra, rồi bị phá sản, rồi luân lạc, rồi có một Hồ Dzếnh coi Việt Nam quê mẹ là quê hương chính thức, quê hương đích thực, quê hương của người Việt hằng chảy trong huyết quản làm rung động hàng triệu trái tim người Việt qua bao thế hệ.

Hồ Dzếnh ra đi ngày 12-8-1991 tại phố Ngô Thì Nhậm, Hà Nội, nơi vợ chồng ông dọn về ở đây từ nhiều năm trước. Nay ai qua phố này, con đường một chiều, hẳn không thể nào nhận ra căn nhà cũ kỹ thời ấy nữa. Nó đã được xây lên, hòa nhịp vào cuộc sống mới thị trường... Nhưng có lẽ “anh hồn” của một thi nhân tài hoa nhưng lặng lẽ vẫn lãng đãng đâu đây, đi từ “Chân trời cũ” ra, cứ như cái bóng, cứ như làn sương, cứ như ánh trăng để rồi lại khuất vào một “Chân trời cũ” đang đón đợi phía nào kia...

Có không biết bao nhiêu người đã biết rằng: Từng có một thi sĩ Hồ Dzếnh, một nhà văn Hồ Dzếnh, một con người ít nói, lặng lẽ đi giữa cuộc đời không làm phiền lụy đến ai, không nhờ vả ai, nhưng mang lại niềm vui thơ văn, hay là duyên bút mực, cho nhiều người... Đó là tài năng, là tâm hồn, là nhân cách, là phẩm hạnh của con người sống với cuộc đời!...

Băng Sơn

LANHUONG