Làng Đại Vĩ
Xã hội - Ngày đăng : 09:37, 16/10/2007
Do thái độ ấm ức của dân khi tâu, Vua An Dương Vương bảo : ”Đó là dân cà quẫy” và chấp nhận cho dân xuống lập trang Hà Hào - một vùng trũng thấp vốn là đoạn sông cụt của sông Hoàng Giang. Từ lời nói của Vua, dân quanh vùng gọi trang Hà Hào là “Cà Quẫy”, lâu ngày gọi chệch là “Quậy”.
Khi chuyển xuống lập nghiệp ở vùng đất trũng, dân Cổ Loa (Chạ Chủ) đã định cư đầu tiên ở xóm Nguyên Hương, và dòng họ đầu tiên là họ Vũ. Tiếp đến là các họ : Lê, Nguyễn, Ngô, Dương, Phạm …, lập thành cụm dân cư mang tên Quậy Cả, tên chữ là Đại Vĩ. Tại nhà thờ dòng họ Vũ ở Đại Vĩ trước đây có đôi câu đối :
Thiên vị tài bồi dương ngã Vũ,
Thế truyền tác nghiệp tự Nguyên Hương.
Nghĩa là :
Trời làm giàu cho họ Vũ ta,
Đời đời truyền lưu ở xóm gốc.
Từ Quậy Cả - Đại Vĩ, dân làng Chạ Chủ - Cổ Loa mở mang làng xón ra xung quanh, thêm hai cụm dân cư mới hình thành. Đó là làng Quậy Sau, tên chữ là Châu Phong và Quậy Rào, tên chữ là Giao Tác. Cả ba làng (thôn) hợp thành trang Hà Hào, gọi chung là ba làng Quậy; đến thế kỷ XIII, đổi thành làng Hà Vĩ, sau thành xã Hà Vĩ; đầu thế kỷ XIX thuộc tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ tháng 11 năm 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh).
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Hà Vĩ vẫn là một xã độc lập, đến tháng 4 - 1949 nhập với xã Ngũ Hà thành xã Liên Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Từ tháng 5 - 1961, xã Liên Hà được cắt chuyển về huyện Đông Anh thành phố Hà Nội. Ngày nay, làng Quậy Cả - Đại Vĩ là một thôn của xã Liên Hà.
Sống trên vùng trũng thấp, người làng Đại Vĩ ngoài vụ lúa chiêm là chính, còn khai thác nguồn thủy sản trong đồng và làm thêm nghề mộc, nề, sơn.
Là bộ phận gốc và lớn nhất của cả làng Quậy, trên đất làng Đại Vĩ có ngôi đình chung của cả àng. Đình được dựng vào năm Canh Thìn đời Vua Lê Chiêu Tông (1520), sửa lại vào năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng (1744) và làm lại với quy mô như ngày nay vào Canh Tý niên hiệu Thành Thái (1900). Đây là một trong những đình có quy mô lớn nhất trong vùng Đông Ngàn, kết cấu chữ “Công”. Toà đại đình gồm 7 gian, 2 dĩ với tổng chiều dài xấp xỉ 30 mét. Đình đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia (1989).
Đình Hà Vĩ thờ 5 vị thành hoàng gồm: Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng đều là người làng, đã chiêu mộ được hơn 500 binh sĩ theo Hai Bà Trưng khởi ứng nghĩa, đánh đuổi quân xâm lược nhà Hán, giải phóng 65 thành trì trong cả nước về sayu cùng hy sinh tại quê nhà. Ngoài ra còn thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống) có công giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương và Đông Hải (con của Đoàn Thượng, một hào trưởng thời Lý) đã lấy Đại Vĩ làm căn cứ địa để chống lại nhà Trần. Đình là nơi tổ chức hội của ba làng Quậy, từ 12 đến 30 tháng Giêng.
Trên đất Đại Vĩ còn có chùa Chốn Tổ, tên chữ là Đại Bi tự - chùa chung của cba làng Quậy., là một chùa lớn, với 11 toà nhà, 100 gian. Chùa là nơi đào tạo tăng ni cho 72 chùa thuộc 4 tỉnh : Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Hải Dương.
Làng Đại Vĩ xưa có truyền thống hiếu học và khoa bảng với 3 người đỗ đại khoa là:Ngô Tông Củ đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Tuất đời Lê Tương Dực (năm 1514), làm quan đến chức Tả Thị lang bộ Lễ, Nguyễn Trác, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất đời Mạc Đăng Doanh (năm 1538), làm quan Hiến sát sứ), Ngô Chấp Trung - Tiến sĩ khoa Quý Sửu đời Mạc Phúc Nguyên (năm 1553), làm quan Hiến sát sứ. Ngoài ra, Đại Vĩ còn có 4 người đỗ Hương cống, nhiều người đỗ tiểu khoa (học vị Sinh đồ, Tú tài).
Ngày nay, Đại Vĩ là một làng nghề mộc rất phát đạt, chuyên sản xuất các đồ mộc cao cấp.
PGS. TS. Bùi Xuân Đính