Hồn sen

Xã hội - Ngày đăng : 10:09, 04/09/2007

(HNMĐT) - Trong đợt khai quật khảo cổ học ở quận Ba Đình năm trước, người ta tìm thấy nhiều hiện vật, trong đó có một số hòn đá tảng kê chân cột có chạm khắc hình bông hoa sen nhiều cánh tỏa đều, chứng tỏ loài hoa cao quý này đã có mặt ở nước ta từ nhiều thế kỷ.

Sen là loài hoa nhiệt đới, mọc trên nhiều nước có hồ ao đầm lầy và chỉ có về mùa hè nhiều nắng. Tiếc sao mùa xuân là lúc trăm nghìn loại hoa đua nở thì hoa sen lại vắng bóng, còn ngủ vùi mê mệt trong lòng hồ ao bùn đất. Phải cuối xuân, khi lấp ló ngọn nắng hè non nớt, hoa sen mới khoe những “tiền sen” của mình, nổi lên bồng bềnh mặt nước, chưa đủ sức vươn cao vào nắng. Đó là lúc nhà nữ thi sĩ tài danh đã viết: “Tiền sen này đã nẩy”.

Người Việt Nam hầu như ai cũng thuộc lòng câu ca dao:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Ca dao nói đến phẩm chất cao quý của loài hoa dân dã, vươn lên trong nhọc nhằn gian khổ lầm than nhưng không bị nhuốm bẩn những gì hèn hạ thấp hèn...

Cách đây nhiều năm, sinh thời nhà thơ Phùng Quán có một phản đề về câu ca dao này. ông cho rằng, bông sen đã tự cao tự đại, đã khinh thường nơi sinh ra mình, đó là khi hoa sen coi nơi mình nẩy mầm, nở hoa, ngát hương... là nơi hôi tanh, là bùn bẩn... Hoa cũng như con người, không một ai có quyền khinh thường quê hương bản quán, coi thường cha mẹ ông bà đã sinh thành và nuôi dưỡng ta. Tục ngữ còn nói: “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”. Ý kiến này đúng đến đâu, xác đáng thế nào, tiếc sao lâu nay bị chìm vào quên lãng, nhất là Phùng Quán đã thành người thiên cổ.

Đời thường, hoa sen đã thành tên chung cho một màu quen thuộc “màu cánh sen”, màu mà cô thôn nữ nào có chiếc thắt lưng ấy thì lắm chàng trai quên ăn quên ngủ:

Đêm nằm lưng chẳng dính giường

Mong cho chóng sáng ra đường gặp em...

Sen thường chỉ mọc trong bùn nước. Nó nằm sâu trong bùn hàng nửa năm để khi cựa mình thức giấc là lúc sắp có những trận mưa rào rửa sạch không gian, chuẩn bị vòm trời cho hương sen thơm ngát những làng xa xóm gần vốn quanh năm lam lũ. Chiếc ngó sen rỗng thành năm sáu ống nhỏ. Thi sĩ Nguyễn Du mất bao nhiêu năm để quan sát, viết ra câu thơ:

Dẫu lìa ngó ấy còn vương tơ này...

Ngó sen, cuống sen, lá sen, cành nâng bông sen đều thế. Ai thời thơ bé hẳn có lần cầm chiếc cuống sen, bẻ ra từng khúc nhỏ, kéo dài một chút, không có khúc nào đứt vì hồn sen vẫn lưu luyến vương tơ để không bao giờ rời nhau như tình yêu thủy chung chẳng thể đứt đoạn. Nếu dài một chút, làm cành sen tơ trắng ấy thành chiếc vòng đeo cổ, đeo tay, chơi cả ngày không chán. Ai cũng biết mùa thu tráng niên, lá sen luôn đi cùng những viên ngọc lưu ly là cốm, sen thơm cùng cốm thơm, sen mềm hay cốm mềm, sen ngọt hay cốm ngọt mà khăng khít hôn nhân đến vậy? Đôi ba thành phố, lá sen còn được gói món quà ngon là xôi lúa. Chiếc lá sen hình tròn, đôi khi làm chiếc nón đội đầu của trẻ trâu trưa nắng chang chang, được xé nhỏ ra làm năm làm bẩy mảnh, mỗi mảnh có hình chiếc quạt giấy hé mở nửa chừng…

Có một món ăn rất đặc biệt: Mứt sen trần. Hàng chục loại mứt, không loại nào sánh được với món mứt sen trần. Mứt sen ngọt sắc nhưng không ngấy như mứt bí, không rùng mình như mứt me, không ợ nồng như mứt dừa, không nặng bụng như mứt trứng chim... Mỗi viên mứt sen là một viên ngọc màu vàng, hơi rỗng giữa một chút vì đấy là nơi cái tâm sen từng mơ ngủ. Ta nhón một vài viên hoàng ngọc ấy, “hãm” với ngụm chè sen nóng bỏng, còn bốc hơi nghi ngút, thơm suốt ba gian nhà... thanh tao đến thế là cùng!

Danh nho Cao Bá Quát không thích ướp trà bằng hoa sen, nhưng thi sĩ Vũ Hoàng Chươngca ngợi chén trà sen đượm hương trời đất xóm làng, một chén trà phải tả tơi bao nhiêu thân phận những “hạt gạo sen” thương cảm... Nhân tâm tùy thích.

Có những ai còn nhớ một thời chưa xa lắm, bà hay mẹ mua sen về ướp trà để dành từ mùa hè đến tết. Những ngày ấy khắp nhà sực nức hương thơm, nền nhà, chăn chiếu, mặt phản, ghế ngựa đầy những bông hoa sen đã lấy hết “gạo”, triệu triệu cánh sen có thể thành cái đệm êm cho bé thơ nhảy vào, nằm chơi và người thì cứ thơm như vừa tẩm nước hoa tràn ngập. Chơi chán thì lấy từng cánh hoa sen làm thuyền thả xuống mặt ao làng, mặt hồ gần đấy, tưởng tượng đó là con thuyền hoa của chàng hiệp sĩ đi tìm công chúa... Thuyền không đi xa được vì không có gió, thì cứ hò reo thật mạnh nó sẽ phải đi, như nó có linh hồn, nó hiểu tiếng người! Cái gương sen nữa, những hạt sen còn nhỏ như viên gạo nếp, rỗng ruột, trước khi cho lên đầu lưỡi để nhai vị bùi bùi ngai ngái thì thế nào cũng phải đập nó vào trán kêu đánh bép một cái mới thú vị, mới thành niềm vui kỷ niệm nhớ đời... Còn nhụy sen với tua vàng trắng, buộc sợi chỉ cho nó xoay từ cao xuống thấp như một nghệ sĩ leo dây, nhào lộn, như một bánh xe đang lăn vào cõi hư không... Người lớn uống trà sen lấy hương, còn người bé ăn lấy hồn sen là thế!

Thực tế sen có hai loại: trắng và hồng. Nhưng loại hồng lại là hai loài chỉ họ hàng mà khác giống: Hoa sen và hoa quỳ. Sen là bông hoa ngoài lớp cánh to còn thêm lớp cánh nhỏ rồi mới đến nhụy và gương sen. Quỳ thì không, chỉ có một lớp cánh to là đến nhụy ngay. Hoa sen thơm nên quý hơn hoa quỳ.

Đó là cuộc đời. Còn trường tồn và linh thiêng thì không ai phân biệt. Phải chăng vì sen được coi là loài hoa cao quý nên hoa được đúc thành đài để Đức Phật ngự tọa trên cao, gọi là Đài Sen? Ta gặp rất nhiều những đài sen như thế, nhỏ hơn là chân cột đá cho ngôi đình vững chãi, những tảng đá xanh ngàn năm không mỏi cũng chẳng mòn, cứ trơ gan cùng tuế nguyệt để gìn giữ niềm thương quý. Nhỏ hơn nữa là những hình chạm khắc trang trí nơi cửa lộng, nơi riềm mái, nơi đầu đao, nơi đốc xà... bông hoa sen có khi giữ nguyên dáng vẻ, có lúc cách điệu như nở riêng cho mắt ai nheo mờ hư ảo... Và lưng tựa bộ ghế cổ kia chạm chìm đục nổi những cảnh “chùm nho con sóc”, “con dơi đồng tiền”, “mai lan trúc cúc”, “con vịt ao sen”... Nó quen thuộc gần như thành công thức, một công thức chắc phải hàng trăm năm mới tìm ra dưới con mắt nghệ nhân thiên bẩm mọi làng quê xa hút, mà phải rất lâu ta mới có dịp về thăm quê ấy...

Nhiều người truyền nhau chuyện người xưa đi hứng nước lá sen về đun sôi pha trà. Không đáng tin. Vì công phu lắm mới có chút nước, hơn nữa đun sôi thì hương bay đi hết rồi còn đâu. Chỉ có điều nước giếng pha trà là ngon hơn cả, trà sen là quý hơn mọi loại trà khác và lá sen có một loại tế bào không thấm nước nên nước đựng vào đó, khi nghiêng đi, nó lăn chảy thành những giọt thủy ngân tròn tròn lấp lánh, kỳ ảo...

Thật tiếc mùa xuân không có hoa sen, những ngày tết không có bông hoa sen trong nhà, nhưng không sao, trên tường nhà ta có bộ Tứ bình thấp thoáng màu sen, lên chùa lễ Phật cho lòng thanh thản ta vẫn gặp đài sen, nơi đức Tam thế ngồi, Phật bà Quan âm đứng... và sen vẫn gần gũi ta từng ngày trần thế. Hồn sen vẫn vương vất ở quanh ta, trong cuộc đời ta!

Băng Sơn

LANHUONG