Làng Huyền Phố
Xã hội - Ngày đăng : 11:23, 21/08/2007
Tuy nhiên, cho đến nay, khi nói về “Ba làng Mỗ”, nhiều người đều thống nhất kể tên hai làng Tây Mỗ và Đại Mỗ, còn làng Mỗ thứ ba, lại có đến ba thuyết khác nhau. Một thuyết cho rằng, đó là làng Mỗ Lao (thực ra, đây là sự nhầm lẫn, vì làng này chính là “Mộ Lao”, đầu thế kỷ XIX cùng thuộc tổng Thiên Mỗ (tức Đại Mỗ). Một thuyết khác cho rằng, đó chính là làng Ba Lật, tức làng Phú Thứ, nay thuộc xã Tây Mỗ. Tuy nhiên, rất nhiều người đã không đồng ý quan điểm này.
Gần đây, khảo sát lại làng Đại Mỗ, tôi thấy hé lộ ra một số tư liệu có thể kết luận về làng Mỗ thứ ba này. Đó chính là làng Huyền Phố - vốn là xóm Chợ của làng Đại Mỗ phát triển thành.
Xóm Chợ là một xóm lớn của lảng Đại Mỗ, nằm ven đường 70 từ thành phố Hà Đông đi Nhổn. Từ giữa thế kỷ XVII, tại đây đã hình thành một chợ buôn bán khá sầm uất. Lớn, gọi là chợ Khánh Nguyên, Đầu thế kỷ XVIII, Thám hoa - Tể tướng Nguyễn Quý Đức - người làng Đại Mỗ nhận được lộc điền theo chế độ ưu đãi của triều Lê - Trịnh đã hiến 4 mẫu để cho làng mở mang chợ, lại cho dân xóm 3 mẫu – cũng như các làng Đại Mỗ, An Thái và Phú Thư để làm ruộng tế lễ.
Chợ được mở mang thành một chợ lớn trong vùng, càng thu hút người các nơi về làm ăn sinh sống bằng hai nghề chính là buôn bán và dệt lĩnh. Dân xóm gồm các dòng họ : Nguyễn Gia, Phạm Văn, Lê Doãn, Lê Văn, trong đó họ Nguyễn Gia chiếm đến hai phần ba. Dân cư trong chợ và quanh chợ đa tạp và có nhiều nét khác biệt về nghề nghiệp nên dần dần hình thành sự khác biệt về lối sống, tính cách với dân cư các xóm còn lại, dẫn đến việc họ lập đình và chùa riêng. Đình được gọi là đình Bổ (có lẽ do được xây dựng khi xóm còn ít người, chưa có nguồn công quỹ riêng nên phải bổ cho các suất đinh đóng góp nên gọi như vậy). Lúc đầu là đình lá, đến năm Đinh Dậu đời Thành Thái (năm 1897) được xây gạch và lợp ngói.
Đình mới được tu bổ lại gần đây, chỉ là đình nhỏ, có kiến trúc chuôi vồ gồm ba gian tiền tế và một gian hậu cung. Chùa của xóm gọi là chùa Sét, tên chữ là Linh Quang tự, kiến trúc chuôi vồ. Trong chùa còn 8 tấm bia hậu, trong đó bia có niên hiệu sớm nhất là vào năm Gia Long thứ năm (1806) ghi việc ông Phạm Đình Phiên và vợ đặt hậu một mẫu ruộng. Chùa còn có quả chuông đúc năm đầu niên hiệu Thiệu Trị (Tân Sửu, 1841). Xóm còn có cả ngôi “đền Bà Hiếu”. Bà này vốn ở vú cho gia đình Tể tướng Nguyễn Quý Đức, được trả ơn một mẫu ruộng. Khi về già, bà đã hiến số ruộng này cho xóm Chợ nên dân xóm phải giỗ bà.
Với việc có đình chùa riêng, dân xóm Chợ tiến hành tổ chức tế lễ riêng, tuy vẫn thờ chung thành hoàng, mở hội chung với làng gốc Đại Mỗ. Dân xóm cũng hình thành hai giáp để lo việc tế tự ở đình riêng là giáp Đông và giáp Tây.
Với những đặc điểm trên đây, xóm Chợ dần dần được gọi là một làng, mang tên Huyền Phố. Nhiều người coi đây là một trong ba làng Mỗ.
Ngày nay, xóm Chợ - làng Huyền Phố trở thành một thôn đông đúc của xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm.
Xuân Đính - Phương Anh