Làng Lương Quy
Xã hội - Ngày đăng : 16:02, 29/05/2007
(HNMĐT)- Làng Lương Quy tên gọi cũ là Kim Con, đầu thế kỷ XIX là một xã thuộc tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (năm 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Năm Tự Đức thứ 29 (1876), cả tổng Cổ Loa được tách khỏi huyện Đông Ngàn, để lệ thuộc huyện Đông Anh mới được thành lập.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Lương Quy hợp nhất với các làng : Lương Quy, Nhạn Tái, Xuân Nộn thành một xã mang tên Tự Do thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (từ năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc). Tháng 5 - 1961, xã Tự Do cùng các xã khác trong huyện Đông Anh được chuyển về thành phố Hà Nội, Năm 1965, xã Tự Do đổi tên thành Xuân Nộn.
Lương Quy là làng cổ, được hình thành cùng với quá trình dựng nước của tô tiên ta từ thuở các Vua Hùng. Tục truyền, vào thời Hùng Vương thứ VI, có ba anh em sinh ba là Thống, Duy, Giang tổ chức các trận chiến chống lại giặc Ân ở làng Lương Quy và các làng xung quanh, lập được nhiều công, được Vua Hùng trọng thưởng.
Trước Cách mạng Tháng Tam, Lương Quy là một làng nhỏ (năm 1928, làng có 509 nhân khẩu). Trai đinh trong làng sình hoạt trong 4 giáp : Đông, Bắc, Tây, Nam. Dân làng sống chủ yếu bằng làm ruộng.
Làng Lương Quy trước đây có đình và đền, nhưng đã bị tàn phá trong chiến tranh, nay mới được khôi phục.
Hội làng Lương Quy diễn ra trong hai ngày mồng 5 và 6 tháng Hai. Ngoài tế lễ và đám rước, có trò thổi cơm thi tại sân đinh rất độc đáo. Cuộc thi trải qua năm bước :
Thi bổ cau têm trầu : mỗi giáp cữ hai thnah nữ tham gia với sự hướmg dẫn của một phụ nữ. Những người dự thi xết thành hàng dọc theo từng giáp trước mặt Ban giám khảo. Sau khi hiệu lệnh thi phát ra, họ vào đình lễ thánh rồi quay ra nhận trầu, cau đặt ở 4 bàn trước mặt Ban giám khảo, về chỗ quy định để bổ cau, têm trầu. Sau 20 phút, giáp nào xong trước, cau bổ đều, trầu têm đẹp sẽ nhận được điểm cao.
Thi chạy thẻ : mỗi giáp cử một thanh niên khỏe mạnh chạy đến một ngôi miếu cách đình một cây số, qua những thửa ruộng mấp mô để lấy thẻ về nộp cho Ban giám khảo để được thi các bước sau.
Thi kéo nước : mỗi giáp cử một người lấy nước tại một giếng nước gần đình, Dụng cụ lấy nước là nồi gốm mỏng lồng trong một quang treo, khiến cho nồi rất dễ nghiêng, dễ vỡ. Giáp nào lấy được nồi nước đầy về trước sẽ thắng cuộc.
Thi xay thóc giã gạo : mỗi giáp cử bốn trai đinh thi giã thóc trong một cối nhỏ, làm sao để thóc không bị vãi bắn ra ngoài, sau đó sàng sảy kỹ. Gạo nộp trước và gạo sạch, không nát sẽ được điểm cao.
Thi kéo lửa : mỗi giáp cử 3 người kéo lửa bằng một thanh dang buộc tay cầm ở hai đầu, một đoạn gỗ hoặc tre khô, rơm và bùi nhùi. Kéo được lửa sớm hay muộn là căn cứ để tính điểm.
Thi bắt gà và mổ gà : mõi giáp cử 4 - 5 trai đinh tìm cách bắt được gà bay ra từ một lồng gà thả trên cao. Bắt được gà tiến hành cắt tiết bằng mảnh cật nứa, đun nước làm lông và mổ gà rồi luộc. Điểm của cuọc thi này căn cứ vào độ sạch lông, da không bị xước, vết cắt tiết và vết mổ không quá to, hai cánh cong đều và đầu hướng lên sẽ được chấm điểm cao.
Thi thổi cơm : mỗi giáp cử 3 - 4 trai đinh, vừa đi vừa thổi cơm bằng hai bó đuốc (một người cầm nồi, hai người đun). Căn cứ vào cơm dâng lên sớm hay muộn cùng độ trắng, dẻo để chấm điểm .
Sau bảy bước, Ban giám khảo cộng điểm và trao giải chung cho giáp nào được nhiều điểm nhất.
PGS, TS. Bùi Xuân Đính