Nghệ nhân thư pháp tuổi 80
Xã hội - Ngày đăng : 08:32, 24/02/2007
Sinh ra tại làng nghề Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, ngay từ thuở ấu thơ, đã theonghề gò đồng truyền thống của quê hương, Nguyễn Đức Chỉnh còn chăm chỉ học chữ Hán-Nôm.
Từ năm 1950, khi quê hương bị bom đạn giặc san bằng, ông đến định cư ở Hà Nội. Hằng ngày, dẫu sống giữa cảnh phồn hoa, ông vẫn luôn chăm chỉ học nghề và đặc biệt chẳng bao giờ sao nhãng việc học chữ với các cụ cử Trần Lê Nhân, Ngô Lập Chi và Hoàng Mậu Lâm. Do có óc thẩm mỹ và yêu thích môn hội họa ông còn học nghề chạm bạc do nghệ nhân Nguyễn Viết Chã, người cùng làng hướng dẫn. Sẵn lòng ham mê học hỏi, cần cù và khéo tay chẳng bao lâu ông đã thành bậc giỏi có tiếng.
Cuối năm 1985, tại Hội chợ kinh tế - kỹ thuật tại Giảng Võ, sản phẩm chạm bạc của ông được thưởng Huy chương vàng. Năm 1986, với bộ “Nậm rồng” dung tích 4 lít và bộ “Cốc nậm rượu”, ông được phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân”.
Dẫu đã được phong tặng danh hiệu cao quý, nhưng hằng ngày ông vẫn không ngừng trau dồi nghệ thuật và mỗi năm lại có thêm sản phẩm mới. Năm 1999, ông trình làng “Tráp chạm bạc”, quanh thân chạm nhị thập bát tú, giữa nắp chạm tứ quý, tứ linh, ngư tiều canh mục. Năm 2000 ông hoàn thành hộp trang sức hình lục lăng bằng bạc nặng 2,8 kg. Trên nắp và xung quanh thân hộp chạm nổi 6 cảnh mô tả sinh động 6 giai đoạn chính trong cuộc đời chìm nổi của Thúy Kiều.
Điều dễ nhận thấy là ở mỗi tác phẩm nghệ nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa kỹ thuật gò liền, hội họa và thư pháp. Hơn 10 năm trước, khi đã bước vào tuổi “xưa nay hiếm” nhưng ông vẫn đều đặn có mặt tại lớp học chữ Hán do nhà thư pháp Lê Xuân Hòa hướng dẫn. Để thường xuyên văn ôn võ luyện, ông tham gia và là thành viên tích cực của tổ thơ Hán-Nôm Hà Nội. Cứ 6 tháng một lần,sáng tác thơ ca củatổ viên được tập hợp, biên soạn và xuất bản nội bộ. Chọn lọc từ 14 tập thơ ra trong 10 năm, tổ xuất bản 2 tập “Song ngữ Hán-Việt thi”, tất cả đều do ông Chỉnh trình bày, minh họa. Đặc biệt các bài thơ dịch từ Hán sang Việt (và ngược lại) đều do ông Chỉnh trình bày bằng thể chữ chân chuẩn xác.
Chữ Hán-Nôm của nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh còn được thể hiện lên gỗ, đồng, vàng, bạc. Hàng nghìn câu đối do ông thể hiện theo các thể chữ chân, triện, lệ được khắc lên gỗ rồi sơn son thếp vàng treo ở các đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ họ vàtư gia. Nội dung các câu đối này một số lấy từ các bản thần tích, tộc phả, số còn lại do ông sáng tác. Năm 2000, sau một tháng làm việc miệt mài, ông hoàn thành bức cuốn thư bằng đồng cỡ 50x35 cm theo kỹ thuật chạm nổi. Hai bên cuốn thư là hai cây thông, phía trên chạm mai hóa rồng. Trên nền cẩm quy và thảm phên chạm nổi hai chữ thọ. ở chính giữa chạm bài thơ “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế. Toàn bộ các chữ này được ông khắc chìm “ngang bằng sổ thẳng” bộc lộ nét mềm mại, uyển chuyển, hào hoa.
Có thể nói gần 60 năm gắn bó với mảnh đất Hà Nội thân thương, nơi đây đã ươm mầm và giúp tài năng ông phát triển. Và khi có dịp ông làm việc hết sức mình để đáp mối tri âm, tri kỷ đó. Năm 2003, thành phố dựng đền thờ hai vị Tổng đốc Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương tại Cửa Bắc, bức đại tự và câu đối do GS Vũ Khiêu sáng tác đã được ông thể hiện trên gỗ:
Trung vị quốc, nghĩa vị dân, lưỡng phiến đan tâm huyền nhật nguyệt;
Sinh ư Nam, tử ư Bắc, thiên thu chính khí vượng sơn hà.
Kính trọng tài năng lỗi lạc của vị vua khai sáng triều Lý, người có tầm nhìn xa, chọn nơi có thế đất rồng chầu hổ ngồi làm kinh sư muôn đời, ông Chỉnh đã dành thời gian và tâm huyết chép “Thiên đô chiếu” của Lý Thái Tổ trên giấy in hoa, bố cục chữ đúng phương pháp, từng nét chữ viết hài hòa, có góc cạnh.
Vào một ngày giáp tết, tôi đến thăm nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh ở ngõ Mai Hương, phố Bạch Mai. Sinh năm Mậu Thìn (1928) đến tết Bính Tuất bước sang tuổi 80, ông vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, vẻ mặt hồn hậu, yêu đời. Tâm huyết với vốn chữ nghĩa của cha ông, từ 3 năm nay ông chuyển sang dạy chữ cho lớp người sau. Mỗi lớp có 10 người. Theo ông, học chữ Nho không thể vội vã mà phải nhẩn nha nghiền ngẫm nghĩa lý của từng câu, từng chữ rồi để nó thấm dần vào nếp sống hằng ngày. Mở đầu chương trình,học viên học các bài trong sách “Minh đạo gia huấn”, “ấu học ngũ ngôn thi” rồi đến “Minh tâm bảo giám”. Trong lớpcó ông Lê Đỗ Việt Sơn, ở tuổi 70 vẫn say sưa với phép tắc; chị Đỗ Bích Ngọc, sau hai năm học đã viết chữ đẹp. Chị Nguyễn Thị Minh Châu ở tuổi 59, khi đến lớp mới học cầm bút lông, chỉ sau một năm đã viếtkhá chuẩn. Chị Nguyễn Thị Thanh, con dâu ông Chỉnh, do chuyên cần, hiện là người viết chữ đẹp nhất lớp. Anh Nguyễn Đức Duy 20 tuổi học chữ, học viết trong hai năm đã thông thạo nhiều nghĩa lý trong sách. Điều lý thú là tất cả những ai đã từng đến “nương nhờ” cửa thầy, ra ngoài xã hội đều từng bước trưởng thành, gương mẫu trong ứng xử, lịch lãm trong giao tiếp. ởtuổi 80, nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh coi đó là niềm vui chân chính của cuộc đời.
Trần Văn Mỹ