Làng Mạch Lũng

Xã hội - Ngày đăng : 09:31, 23/02/2007

(HNMĐT)- Làng Mạch Lũng tên Nôm là làng Súng, nằm trên một doi đất cao ven sông Hồng. Đầu thế kỷ XIX là một làng xã thuộc tổng Quả Mai (hay Sáp Mai), huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây (từ năm 1831 trở đi là tỉnh).

(HNMĐT)- Làng Mạch Lũng tên Nôm là làng Súng, nằm trên một doi đất cao ven sông Hồng. Đầu thế kỷ XIX là một làng xã thuộc tổng Quả Mai (hay Sáp Mai), huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây (từ năm 1831 trở đi là tỉnh).

Năm Tự Đức thứ 28 (1876), tổng Quả Mai được nhập về huyện Đông Anh mới được thành lập, thuộc tỉnh Bắc Ninh (từ 1901 thuộc tỉnh Phù Lỗ, năm 1903 đổi thành tỉnh Phúc Yên). Năm 1928, làng có 724 nhân khẩu.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mạch Lũng nhập với các làng Đại Đồng, Lũng Đông, Mai Châu và Bãi Cát thành xã Dân Chủ thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc). Năm 1961, xã Dân Chủ cùng các xã khác trong huyện Đông Anh được chuyển về thành phố Hà nội. Năm 1968, xã Dân Chủ được đổi tên thành xã Đại Mạch.

Tục truyền, làng Mạch Lũng được hình thành từ thời Hùng Vương. Vua Hùng thứ 18 có người em kề cận là Hùng Trang, làm quan trưởng đạo Hải Dương, lấy bà Xoa Nương là con gái bộ chủ Cửu Chân. Lấy nhau được 12 năm, ông bà mới sinh một lúc ba người con trai thể mạo khôi ngô kỳ lạ, đặt tên chung là Minh Mỗ, gọi theo thứ tự : Cả, Hai, Ba. Năm ba người con lên bảy tuổi, Hùng Trang đột ngột từ trần. Bà Xoa Nương nuôi các con khôn lớn, chỉ vài năm cả ba người đều tinh thông thiên văn địa lý. Một năm nọ, trời làm vùng đất Tam Đái đại hạn, Vua Hùng gọi ba người đến phát chẩn và giúp dân chống hạn. Ba anh em đến trang Mạch Lũng lập miếu, dựng đàn cầu khấn. Chẳng bao lâu, chỗ nước sâu tự rút dần, nơi khô cạn trời mưa xuống, nhân dân trong vùng cày cấy thuận lợi, mùa màng tươi tốt. Vua triệu cả ba anh em về để phong tước, nhưng dân trong vùng xin lưu lại. Vua chuẩn y, cho ba vị xây cung Mạch Lũng, lại xây một cung khác để đón bà Xoa Nương về. Từ đó, dân trong vùng yên ổn, no ấm. 

Về sau, ba anh em còn lập công to đánh lại nhà Thục. Trên đường trở về kinh đô báo tin thắng trận, ba người về Mạch Lũng làm lễ bái trước điện. Lễ xong, bỗng nhiên trời đất tối sầm, cả ba anh em biến thành giao long lao xuống sông Hồng. Vua Hùng nghe tin, phong sắc cho cả ba người, là Ông Cả Minh Mỗ đại vương, Ông Hai Minh Mỗ đại vương và Ông Ba Minh Mỗ đại vương. sức cho dân trang Mạch Lũng thờ cúng. 

Hội làng Mạch Lũng diễn ra từ mồng 9 đén 13 tháng Hai, tương truyền là dịp mừng chiến công của ba vị thành hoàng. Mở đầu hội là lễ tế Hà thần (thần sông), rước nước thờ. Ngày 12 chính hội, rước kiệu từ miếu lên đình và thi bơi chải. Mỗi giáp một thuyền, bơi từ cửa miếu đến bến Lộc Trì, tương truyền là điểm dừng thuyền phát chẩn của ba vị thần xưa kia. Ngoài ra, dân làng còn có ngày tiệc vào 14 tháng Bảy tương truyền là ngày hóa của các vị thần.

Làng Mạch Lùng trước đây có 23 mẫu ruộng công và 6 mẫu đầm công, hàng năm cho đấu giá lấy tiền chi vào các việc chung. Trước đây làng còn có 10 cây gạo to ở đầu làng, không chỉ tạo cảnh quan đẹp mà còn cho đấu thầu (lấy bông hoa gạo) để mỗi năm có thêm một ít tiền vào công quỹ. Trước đây, làng kết nghĩa với làng Lũng Đông ở bên cạnh.

PGS, TS.Bùi Xuân Đính

TUYETMINH