Chơi Lồng phóng

Xã hội - Ngày đăng : 10:23, 27/09/2006

(HNM) - Chiếc lồng to tướng- sau này mới biết đó là lồng phóng- đầu tiên tôi được nhìn thấy cách nay đã nửa thế kỷ. Nó được treo ở góc vườn nhà ông Luân, phía trước nhà tôi, số 11 phố Cao Bá Nhạ- nay là ngõ Cầu Gỗ, ngay phía sau phố Đinh Tiên Hoàng.

Chiếc lồng to tướng- sau này mới biết đó là lồng phóng- đầu tiên tôi được nhìn thấy cách nay đã nửa thế kỷ. Nó được treo ở góc vườn nhà ông Luân, phía trước nhà tôi, số 11 phố Cao Bá Nhạ- nay là ngõ Cầu Gỗ, ngay phía sau phố Đinh Tiên Hoàng. Ông Luân nổi tiếng về tính quảng giao, tài nuôi chim chóc, muông thú. Bộ tràng kỷ nhà ông luôn chào đón những người bạn cao niên thật đôn hậu từ miền Nam mới tập kết ra Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954).

Ông Luân- người nhỏ nhắn nhưng quắc thước- là một người thật nghiêm. Cả ông lẫn bà vợ rất quý trẻ; nên tôi và một hai chúng bạn cùng phố luôn là những vị khách không mời mà đến. Nhà ông Luân có một sân trời như bao kiến trúc cũ khác của Hà Nội, nhưng ở đó luôn đầy tiếng chim với vô số cây cảnh xúm xít quanh một gốc si già, râu ria đến hàng mét. Trong cái mảng trời bé con ấy nào là lồng mi, lồng khướu và cả yến nữa... Ngay cả người nhà mỗi khi vào “khu vườn” này đều phải rón rén. Ngoài điểu cầm, gà tre, chó lài... cái tủ sách của ông ở góc nhà hút tôi nhiều hơn.

Tủ sách của ông Luân thời ấy là một chiếc tủ cũ kỹ bằng gỗ, rất đẹp. Nhưng những quyển truyện trong tủ mới thực sự là những “thỏi nam châm”. Sách trong tủ đều đã ngả vàng và có mùi rất đặc trưng của sách để kín lâu ngày. Nhưng tất cả rất phẳng phiu dù chúng thường được xem đến nỗi nhiều trang đã lỏng và có tay sách đã đứt cả chỉ. Lũ trẻ phố Cao Bá Nhạ cũng góp phần làm cho tủ sách của ông cũ thêm. Sau này tôi mới biết trong đó còn có nhiều sách từng bị cấm một thời, được gọi là sách “bìa vàng” hay “kiếm hiệp”. Vì cùng với Đầu giáo sư “Đâu Oen”, “Sê-lốc Hôm” của phương Tây, trong tủ sách còn có cả “trinh thám An Nam” như: Người nhạn trắng, Bác sĩ Mai Anh, Thám tử Đoan Hùng... Những tình tiết ly kỳ về nghĩa trang Hợp Thiện (nay vẫn còn ở cuối phố Minh Khai), rồi nhà thương Phủ Doãn (nay là bệnh viện Việt - Đức) hay các tập tục của người Mường vùng núi Hòa Bình cùng những mũi tên tẩm thuốc độc của họ... từ các cuốn truyện lôi cuốn chúng tôi ghê gớm.

Đến chiếc lồng phóng nơi phố cổ

Nhưng ấn tượng nhất mỗi khi rời nhà ông Luân với tôi vẫn là cái lồng to tướng treo ở góc sân và tiếng những con chim hót sâu nơi phố cổ. Đầu xanh tuổi trẻ nào biết gì về mi với họa, quá lắm cũng chỉ biết đến con khuyên, con sáo là cùng. Cái lồng to đại cồ lồ- một đứa trẻ như tôi chui lọt- kia không thấy nuôi chim, thật bí hiểm.

Chỉ duy nhất có một lần tôi thấy cái lồng ấy được ông Luân sử dụng. Đó là vào một trưa hè, khi cây gạo xù xì, cao ngất trước cửa đền Ngọc Sơn- quá quen thuộc với chúng tôi, mới chết cách đây ít lâu- tung những bông hoa to và đỏ như những cốc lửa lên bầu trời trong xanh, thì con họa mi của ông Luân bị sổng. Không biết con mi sổ lồng sướng cỡ nào mà tiếng hót của nó vọng về, khiến ông Luân nhận ra:

- Nó đang ở đám cây vông, dưới chân Tháp Bút.

Thế là một con mi được ông vội vã mang theo; cái lồng to đùng được hạ xuống, bữa cơm trưa tạm gác lại. Từng chứng kiến mấy ông anh ở phố trèo lên bờ mái tầng hai nhà tôi để bẫy khuyên bằng cái lồng bẫy mua ở chợ Đồng Xuân, còn lừa mi sổng, đây là lần đầu tiên tôi có cơ hội được chứng kiến.

Vô cùng háo hức, thế là quần soóc, áo “may ô”, tôi cất vội quyển truyện đọc dở vào tủ, rồi ba chân bốn cẳng chạy về xin mẹ, theo ông Luân băng qua đường Đinh Tiên Hoàng, cả đường tầu điện để sang đám vông dưới chân Tháp Bút, bên trái cửa đền Ngọc Sơn. Sau khi đặt lồng trên bãi cỏ, nơi trên cao con mi vừa réo lên tìm bạn; ông Luân huýt sáo đáp lại- tiếng huýt lạ, khó- và xua tôi cùng đám trẻ trong phố về phía chân núi đá.

Trưa hè, quanh đền Ngọc Sơn vắng tanh- không nhiều khách du lịch như bây giờ- chỉ lác đác vài bóng người và mấy ông thợ khắc bút trong phố. Sau một hồi yên lặng, ông Luân đã “gọi” được con mi trở lại cái lồng to đùng trước ánh mắt thán phục của mấy ông khắc bút cùng đám người hiếu kỳ trong đó có tôi.

Bẵng đi một thời gian, sơ tán, rồi chiến tranh đã dứt tôi khỏi con phố có tiếng chim; nhưng cái lồng quá khổ kia để lại một ấn tượng bảng lảng mãi không thôi.

Sau này, mấy người chơi chim cho tôi biết, chiếc lồng như thế, dân “trong nghề” gọi là lồng phóng. Để giải thích cho cánh nghiệp dư, mấy ông quái ở chợ chim Tăng Bạt Hổ- thường thấy các bà sồn sồn chăm tập thể hình vào buổi sớm- bèn tặc lưỡi:

- Lồng tập thể dục ấy mà!

Gọi thế cũng đúng. Vì họa mi nuôi- ngoài để nghe tiếng hót tuyệt vời- chủ yếu các nài chim huấn luyện chúng trở thành các đấu sĩ. Ai không tin cũng đành, có con mi đổi được cả một trâu nái; còn lấy gánh sắn, bữa rượu đóng bốn nơi vùng cao - xứ Lạng là chuyện thường ngay trong ngày hôm nay.

Vậy là cùng với lồng trống, lồng mái, các dân tộc ít người xứ Lạng còn làm cả lồng phóng. Tác dụng của chiếc lồng là giúp con họa mi luyện thêm gân cốt trước khi vào đấu trường. Mi được chủ nuôi ở trong lồng phóng chỉ quãng tuần lễ. Lâu hơn nó sẽ hao lực do bay nhảy trong chiếc lồng quá rộng. Đây chính là câu trả lời tại sao hồi đó ít thấy ông Luân phố tôi nuôi mi trong lồng phóng.

Lồng phóng Thổ cũ cả Hà Nội chỉ còn vài chiếc. Vì lồng to nên các chi tiết từ cửa đến nan và vanh đều khoe vẻ đẹp, nhưng không vô duyên. Thường một chiếc lồng phóng Thổ bao giờ cũng có chiều cao khoảng 1,2m; tính cả móc lồng thì quãng 1,3m. Nếu có sai chạy, thì chiều cao của tất cả các lồng phóng Thổ cũng chỉ chênh nhau từ 1cm đến 2cm là cùng. Như thế, một lần nữa cho thấy tính chuẩn mực đến mức hoàn hảo của chiếc lồng Thổ với loài chim này. Số đo thứ hai của lồng phóng- chiều rộng- luôn dao động ở mức 60cm; hiếm khi vượt quá, mà thường rút đi từ khoảng 1,5cm đến 3cm để lấy số lẻ- số dương- cho may mắn. Đây cũng là một điểm lạ của thuật toán phương Đông trong kiến trúc lồng Thổ. Còn số nan, hầu như bất biến, thường bao giờ cũng là 80 nan. Lấy chiều rộng của lồng, chia cho số nan, người ta nhận được khoảng cách thích hợp cho các bước nhảy của họa mi. Số vanh cũng vậy; gồm 17 vanh (có 3 vanh đáy); lấy chiều cao của lồng chia cho số vanh (không tính 3 vanh đáy), người ta cũng nhận ra độ phù hợp trong bước chuyền của loài chim tầm thấp, không bay được xa này.

Lồng phóng còn một kích thước nữa nhỏ hơn (trong ảnh). Như vậy, riêng cho họa mi, người dân tộc xứ Lạng đã nghĩ ra tới bốn kích thước lồng cho riêng loài chim này gồm: lồng phóng, lồng phóng nhỡ, lồng trống và lồng mái. Cũng thấy có lồng phóng cho cả chim sơn ca do dưới xuôi làm, nhưng không có gì đặc biệt.

Nay ông Luân và một số bạn thời tập kết đã thành người thiên cổ. Khu vườn ngày nào chỉ còn lại chút dấu tích, tủ sách đã hư hao phần lớn, chiếc lồng phóng không còn ở chỗ cũ. Giới thạo họa mi nay không mấy ai biết Ba Luân- tức cụ Nguyễn Quý Luân- từng cưỡi voi đi săn ở mãi tận biên giới Cao Miên. Cặp sừng bò rừng- một kỷ vật vùng cao nguyên- vẫn còn đó trên tường nhà ông. Thứ vũ khí tự nhiên này từng nhiều phen khiến rừng già huyên náo, nay im lặng nhìn khách nhớ ông. Nó nhắc về thời của một lớp người từng chơi mi trong phố cổ!

Khánh Lâm

ANHTHU