Mẹ trên 35 tuổi, bố trên 45 tuổi có nguy cơ sinh con bị khuyết tật

Xã hội - Ngày đăng : 15:39, 01/02/2023

(HNMO) - Bộ Y tế chia thành 3 nhóm nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ, gồm: Trước sinh, trong sinh và sau sinh. Trong đó, nhóm nguyên nhân trước sinh gồm: Bệnh của mẹ khi mang thai (vi rút, bệnh giáp trạng, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương...). Ngoài ra, mẹ trên 35 tuổi và bố trên 45 tuổi cũng có nguy cơ sinh con bị khuyết tật.

Bộ Y tế vừa có Quyết định số 359/QĐ-BYT về việc ban hành tài liệu “Hướng dẫn phát hiện sớm - can thiệp sớm khuyết tật trẻ em”.

Theo tài liệu hướng dẫn này, số liệu từ các cuộc điều tra y tế và gánh nặng bệnh tật toàn cầu cũng như báo cáo tình hình khuyết tật từ các nước đã đưa đến ước tính mới, có khoảng 1 tỷ người trên thế giới (chiếm 15% dân số) bị khuyết tật.

Tại Việt Nam, Bộ Y tế dẫn số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê về điều tra quốc gia người khuyết tật, ước tính khoảng 1,2 triệu trẻ em gặp phải tình trạng này trong độ tuổi 0-17 (chiếm 3,1% trẻ trong độ tuổi này).

Siêu âm tầm soát dị tật thai nhi tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.

Loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em trong điều tra tại cộng đồng là khuyết tật về vận động chiếm 22,4% và khuyết tật về nói chiếm 21,4% tổng số trẻ khuyết tật.

Nguyên nhân chính của tình trạng khuyết tật ở trẻ em là do khuyết tật bẩm sinh (chiếm 55-65%) và do bệnh tật (chiếm 23,5-29,1%).

Có khoảng 50% số trẻ em khuyết tật tại cộng đồng và khoảng 90% số trẻ em khuyết tật sống tại các trung tâm bị khuyết tật nặng, tình trạng đa khuyết tật gặp khá thường xuyên.

Báo cáo khám sàng lọc trẻ khuyết tật của một số tổ chức phi chính phủ hoạt động tại các tỉnh Ninh Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Thừa Thiên - Huế cũng cho thấy, tỷ lệ trẻ khó khăn về học chiếm 42,6%; nói 39,8%; nhìn 30%; vận động 27,3% và nghe 15,5%.

Về nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ, Bộ Y tế chia thành 3 nhóm: Trước sinh, trong sinh và sau sinh. Trong đó, nhóm nguyên nhân trước sinh gồm: Bệnh của mẹ khi mang thai (vi rút, bệnh giáp trạng, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương...). Ngoài ra, mẹ trên 35 tuổi và bố trên 45 tuổi cũng có nguy cơ sinh con bị khuyết tật. Cùng với đó, mẹ phơi nhiễm môi trường độc hại khi mang thai như các kim loại nặng, chất độc dùng trong nông nghiệp, thực phẩm, các loại thuốc, các chất kích thích như rượu, ma túy, bất thường nhiễm sắc thể, gene, chất liệu di truyền thai nhi cũng được xếp vào nhóm nguyên nhân trước sinh.

Với nhóm nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ trong lúc sinh, đó là việc can thiệp sản khoa (dùng kẹp/hút lấy thai, mổ đẻ, kích thích đẻ...) được liệt kê đầu tiên. Trẻ đẻ non (dưới 37 tuần), thiếu oxy não (ngạt), cân nặng khi sinh thấp (<2.500g), bị vàng da nhân não do bất đồng nhóm máu… cũng được cho là các yếu tố nguy cơ khiến trẻ bị khuyết tật. 

Nguyên nhân sau sinh, đó là trẻ bị chấn thương sọ não, chảy máu não, nhiễm trùng thần kinh, suy hô hấp, sốt cao co giật, phơi nhiễm các yếu tố môi trường độc hại như hóa chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng có nguy cơ bị khuyết tật. 

Theo Bộ Y tế, nếu được phát hiện sớm và can thiệp sớm, nhiều trẻ sẽ phục hồi tốt và trở thành trẻ bình thường, như trường hợp trẻ bị bàn chân khoèo bẩm sinh hoặc trật khớp háng bẩm sinh, trẻ tự kỷ nhẹ có chỉ số IQ bình thường.

Một số trẻ khuyết tật khác có thể phát triển được các kỹ năng gần như trẻ bình thường, như chậm phát triển vận động, ngôn ngữ so với tuổi; bại não liệt nửa người hoặc hai chân mức độ nhẹ.

Một số bệnh nhi nặng cũng được phục hồi, cải thiện kỹ năng và có thể hội nhập xã hội. Đơn cử như trẻ bại não thể co cứng nặng sẽ không bị co rút biến dạng khớp, tuy không đi lại được nhưng ngồi xe lăn vẫn có thể đi học.

Thu Trang