(HNM) - Báo cáo kiểm toán tại 27 tập đoàn, tổng công ty nhà nước do Kiểm toán Nhà nước công bố cuối tháng 7 vừa qua cho thấy, 23/27 đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi song tỷ suất lợi nhuận thấp...
4/27 DNNN và một số công ty con thuộc khối này thua lỗ. Nhiều đơn vị đã điều chỉnh giảm tổng tài sản, nguồn vốn, tổng doanh thu và tổng số nợ phải thu của 27 DNNN lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Thực tế trên cho thấy cần phải tăng cường giám sát tài chính (GSTC) đối với các DNNN bằng những biện pháp chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Hoạt động nghiệp vụ của Kiểm toán Nhà nước tại Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Mai Vy |
Những lỗ hổng trong giám sát tài chính
Theo đánh giá của KTNN, trong những năm gần đây, hoạt động SXKD của nhiều DNNN chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực do kinh tế thế giới suy thoái. 23/27 DNNN được kiểm toán vẫn kinh doanh có lãi, đóng góp quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô. KTNN cũng chỉ rõ nhiều lỗ hổng trong công tác quản lý tài chính tại những DN được coi là "đầu tàu" quan trọng của nền kinh tế. Báo cáo kiểm toán năm 2012 do KTNN thực hiện tại 271 DN thuộc 27 tập đoàn, tổng công ty cho thấy, 4/27 DNNN và một số công ty con trong tình trạng SXKD thua lỗ, nhiều đơn vị có kết quả kinh doanh giảm mạnh so với năm trước. Các DNNN đã điều chỉnh giảm tổng tài sản - nguồn vốn 1.477 tỷ đồng, tổng doanh thu - thu nhập thuần 1.015 tỷ đồng…
Theo KTNN, tổng số nợ phải thu của 27 DNNN được kiểm toán tính đến cuối năm 2011 lên tới 54.133 tỷ đồng, chiếm 20,56% trên tổng tài sản và chiếm 82,97% trên vốn chủ sở hữu. Nhiều DNNN quản lý nợ chưa chặt chẽ, để khách hàng chiếm dụng vốn lớn. Đơn cử, tỷ lệ thu trên tổng tài sản của Công ty cổ phần Xây lắp và sản xuất công nghiệp lên tới 40%; Công ty TNHH MTV Xây lắp điện 4 (Tổng Công ty cổ phần Xây dựng công nghiệp Việt Nam Vinaincon) 59,8%; Công ty cổ phần Sản xuất và XNK Lâm sản Sài Gòn (Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam) 31,2%...
Sự quản lý tài chính thiếu chặt chẽ của các DNNN đã khiến nợ xấu của nhiều đơn vị tăng cao. Trên thực tế, nợ phải thu quá hạn của Công ty cổ phần Xây dựng công trình giao thông Việt Lào (Cienco 8) là 44,08 tỷ đồng, chiếm 43,8% tổng số nợ phải thu; nợ quá hạn tại Công ty cổ phần Lâm đặc sản và XNK Hà Tĩnh 6,23 tỷ đồng, chiếm 71,7%. KTNN cũng cho biết, các DNNN đã ứng tiền mua hàng với số lượng lớn nhưng không áp dụng hình thức bảo lãnh, bảo đảm cho tiền ứng trước dẫn đến nguy cơ mất vốn lớn, chưa phân loại nợ, trích lập dự phòng theo quy định; đồng thời không xây dựng và ban hành quy chế quản lý nợ theo quy định của Bộ Tài chính. Nhiều DNNN đã tạm ứng hàng chục tỷ đồng bằng tiền mặt nhưng chậm thu hồi, thậm chí cho các đơn vị cá nhân vay vốn trong khi bản thân DN đang phải đi vay để SXKD. Tính đến cuối năm 2011, tổng các khoản đầu tư tài chính của DNNN được kiểm toán lên tới 25.750 tỷ đồng song hiệu quả đầu tư thấp, thậm chí thua lỗ, mất vốn… KTNN đánh giá, với tỷ lệ nợ phải trả chiếm tới 69,94% tổng nguồn vốn, những DNNN được kiểm toán đang hoạt động chủ yếu bằng vốn vay và vốn chiếm dụng, nhiều đơn vị có số nợ phải trả quá hạn cao và không bảo toàn được nguồn vốn nhà nước.
Rà soát hiệu quả sử dụng vốn
Nhận xét về những lỗ hổng trong công tác GSTC tại DNNN, TS Vũ Như Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho rằng, những kết quả thực tế cho thấy, cần phải giám sát chặt và hiệu quả hơn hoạt động của khối DNNN. Với Nghị định 61/2013/ NĐ-CP của Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 15-8, những tiêu chí giám sát DNNN cụ thể đã được ban hành nhằm khắc phục sự phối hợp thiếu rõ ràng giữa các bộ, ngành, địa phương trong tổ chức giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN. Theo nghị định, DNNN sẽ bị đặt vào diện GSTC đặc biệt nếu KTNN phát hiện DN rơi vào một trong các trường hợp: Có số lỗ phát sinh từ 30% vốn chủ sở hữu trở lên hoặc số lỗ lũy kế lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu; có hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn nhỏ hơn 0,5; báo cáo không đúng thực tế về tài chính, làm sai lệch lớn kết quả kinh doanh… DN thuộc diện giám sát đặc biệt hai năm liên tục vẫn thua lỗ phải chuyển đổi sở hữu, hoặc giải thể, phá sản. Nghị định cũng quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, cũng như đơn vị liên quan trong tổ chức giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN. Bộ Tài chính có trách nhiệm tổng hợp kết quả GSTC tại DN, báo cáo Chính phủ về hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại DN trong phạm vi toàn quốc.
Tuy nhiên theo TS Vũ Như Thăng, thể chế giám sát chỉ có thể phát huy tối đa hiệu quả khi hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động giám sát thường xuyên được cập nhật và có độ tin cậy cao. Điều này đòi hỏi có cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành liên quan. Các thông tin, số liệu về hoạt động của DNNN không chỉ phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, mà cần có cơ chế công khai thông tin để người dân cùng tham gia giám sát. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, khi một DNNN thuộc diện giám sát đặc biệt, cơ quan chủ quản cần bầu ra ban giám sát để có hướng điều chỉnh kịp thời và hợp lý. Nếu trong một vài quý mà ban lãnh đạo DN vẫn không có chuyển biến tích cực thì cần thay đổi ngay nhân sự, quy rõ trách nhiệm cá nhân thay vì cho giải thể, phá sản một cách dễ dãi, gây lãng phí nguồn vốn nhà nước.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.