(HNM) - Trước hiện tượng bùng nổ đầu tư thép trong vài năm gần đây, nhiều vấn đề đã được đặt ra như tình trạng cung vượt cầu, mất cân đối trong các chủng loại sản phẩm thép hay công nghệ lạc hậu gây chi phí sản xuất cao, ô nhiễm môi trường… Nhiều năm qua tình hình vẫn chưa được cải thiện, nguyên nhân vì sao?
Cấp phép đầu tư thép tràn lan?
Sản xuất phôi thép tại Công ty cổ phần Thép Hòa Phát - KCN Phố Nối A, Hưng Yên. Ảnh: TTXVN
Theo "Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025" do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nước ta đặt mục tiêu đến năm 2020 sản xuất 15 đến 18 triệu tấn thép; trong đó có 8-10 triệu tấn thép dẹt, 7-8 triệu tấn thép dài để dùng trong nước và xuất khẩu. Điều này có nghĩa, với tổng công suất các nhà máy thép cả nước đến hết năm 2009 đạt khoảng 8 triệu tấn/năm, ngành thép chỉ cần đầu tư đạt công suất tối đa 10 triệu tấn/năm là phù hợp.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), như vậy chỉ cần đầu tư xây dựng hai nhà máy liên hợp, mỗi cái có công suất 5 triệu tấn/năm là cân đối đủ cung - cầu theo quy hoạch phát triển ngành. Nhưng trên thực tế, sự bùng nổ đầu tư vào ngành thép ở Việt Nam, nhất là trong hai năm 2007-2008 đã quá đà. Kết quả rà soát của Bộ Công thương trong năm 2009 cho thấy đã xuất hiện hàng chục dự án nằm ngoài quy hoạch, trong đó có 24 dự án do địa phương cấp phép đầu tư vượt thẩm quyền. Việc cấp phép đầu tư thép tràn lan khiến chỉ riêng tổng công suất thiết kế của các dự án ngoài quy hoạch này đã lên tới 60 triệu tấn/năm. Có doanh nghiệp (DN) chỉ trong vòng hai tháng đã ký với hai đối tác nước ngoài để xây dựng hai nhà máy liên hợp với công suất 5-10 triệu tấn/năm.
Thị trường tiêu thụ thép tại Việt Nam và các nước trong khu vực còn hạn chế, nếu các dự án quy mô lớn đi vào sản xuất sẽ khiến cung vượt gấp ba lần cầu, tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt và có thể đưa nhiều nhà máy đến phá sản. Chưa kể, việc đầu tư vượt quy hoạch của ngành thép đang làm mất cân đối quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở các địa phương như năng lượng (điện), hạ tầng cơ sở (cảng biển, đường bộ, đường sắt), ô nhiễm môi trường (khí, bụi, nước thải…). Việc có quá nhiều dự án thép sẽ chiếm nhiều diện tích đất nông nghiệp. Hiện, mỗi khu liên hợp thép chiếm 1.000 - 3.000ha, chưa kể diện tích cảng biển và các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Theo VSA, sau ba năm triển khai theo quy hoạch nhưng do buông lỏng quản lý (chủ yếu do các địa phương cấp phép), đã dẫn đến hiện tượng đầu tư tràn lan trong ngành thép, cung vượt xa cầu. Hậu quả, hai năm nay, các DN thép của Việt Nam phải cạnh tranh nhau khốc liệt. Tính đến nay, công suất thiết kế của các nhà máy sản xuất thép cho kết cấu bê tông (thép xây dựng) của Việt Nam đã đạt 8,5 triệu tấn/năm và năng lực sản xuất thực đã đạt 5,5 triệu tấn, trong khi đó nhu cầu hiện tại mới chỉ cần trên dưới 4 triệu tấn/năm. Sản xuất thép ống đã đạt 1,9 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ mới ở mức một triệu tấn/năm. Thép cuộn cán nguội (thép lá) cũng đã đạt 2,7 triệu tấn/năm, tiêu thụ chỉ một triệu tấn/năm. Tôn mạ, phủ màu (dùng cho lợp mái) sản xuất đạt 1,750 triệu tấn, trong khi tiêu thụ là 1,2 triệu tấn… Trong khi đó, chủng loại thép mà Việt Nam còn thiếu là thép cho sản xuất công nghiệp như các loại thép hợp kim, thép không gỉ dùng cho chế tạo cơ khí (máy móc, đóng tàu) và thép tấm cán nóng (làm nguyên liệu cho cán nguội).
Giá điện sẽ loại bỏ công nghệ lạc hậu
Giá điện ở nước ta thấp hơn so với giá điện khu vực và thế giới. Giá điện thấp đã "khuyến khích" các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài móc nối nhau tìm cách đưa vào Việt Nam các loại công nghệ tiêu tốn năng lượng nhằm mục đích trục lợi như thực tế đã, đang xảy ra đối với các nhà máy sản xuất thép, xi măng hiện nay cung đã vượt cầu, nhưng vẫn tiếp tục mở rộng đầu tư. Theo VSA, chi phí cho điện sản xuất thép chỉ chiếm 5,5% trong giá thành. Vì vậy, việc điều chỉnh giá điện theo giá thị trường sẽ góp phần loại bỏ tình trạng sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất thép. Luyện phôi, thép phế tiêu tốn điện gấp 4-5 lần gia công thép, trung bình ở mức 600 kWh/tấn. Tuy nhiên, với công nghệ tiên tiến, mức tiêu thụ chỉ khoảng 350 kWh/tấn.
Hiện nay, trong số 32 DN của Hiệp hội chỉ có 4 DN sử dụng công nghệ tiên tiến của thế giới; 10 DN có cải tiến công nghệ, còn lại là công nghệ cũ. Theo VSA, giá than, điện, xăng dầu được xác định theo đúng giá thị trường sẽ tạo sự cạnh tranh sòng phẳng, góp phần minh bạch nền kinh tế, để nền kinh tế có lãi thực, không còn tình trạng lãi, lỗ ảo. Trước mắt, để ứng phó với nguy cơ thiếu điện trầm trọng vào mùa khô năm nay, ngành điện và ngành thép đã thống nhất về chủ trương, kế hoạch và các giải pháp để bảo đảm cung cấp điện cho ngành sản xuất thép. VSA sẽ xây dựng danh sách những DN đủ điều kiện để được ưu tiên tiếp tục cấp điện cho sản suất. Đó là những DN sử dụng công nghệ tiên tiến hoặc đã cải tiến để áp dụng khoa học kỹ thuật sản xuất thép tiết kiệm, hiệu quả.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.