(HNMO) - Sáng 6-6, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ ba, dưới sự điều hành của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Chính phủ trình Quốc hội chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội và dự án đường Vành đai 3 thành phố Hồ Chí Minh.
Mở rộng không gian phát triển
Trình bày tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc đầu tư hoàn thành 2 dự án này sẽ góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tăng khả năng kết nối giao thông giữa các tỉnh trong vùng, phù hợp với quy hoạch giao thông quốc gia; giúp mở rộng không gian phát triển, kéo giãn mật độ dân cư khu vực nội thị; giảm áp lực cho giao thông nội đô và các tuyến đường hiện hữu.
Về phạm vi đầu tư, Dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội có tổng chiều dài khoảng 112,8km, gồm 103,1km đường Vành đai 4 và 9,7km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long) qua địa phận thành phố Hà Nội (dài 58,2km), các tỉnh: Hưng Yên (dài 19,3km), Bắc Ninh (dài 25,6km và tuyến nối 9,7km.
Dự án đường Vành đai 3 - thành phố Hồ Chí Minh có tổng chiều dài tuyến là 76,34km, bao gồm đoạn qua thành phố Hồ Chí Minh dài 47,51km, các tỉnh: Đồng Nai 11,26km, Bình Dương 10,76km, Long An 6,81km.
Về quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật: Giải phóng mặt bằng các tuyến đường theo quy mô quy hoạch (6-8 làn xe cao tốc) và hệ thống đường đô thị song hành hai bên. Riêng đường Vành đai 4 giải phóng mặt bằng dự trữ cho tuyến đường sắt vành đai.
Dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội thực hiện theo hình thức đầu tư công kết hợp đầu tư phương thức PPP, được chia thành 7 dự án thành phần; tách riêng phần giải phóng mặt bằng và phần xây dựng đường song hành triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công; riêng dự án thành phần 3 (đầu tư theo phương thức PPP): Hệ thống đường cao tốc toàn tuyến và tuyến nối 9,7km do UBND thành phố Hà Nội là cơ quan có thẩm quyền.
Dự án đường Vành đai 3 thành phố Hồ Chí Minh có hình thức đầu tư công, được chia thành 8 dự án thành phần; tách riêng phần giải phóng mặt bằng và phần xây dựng triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương.
Đối với dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn phân kỳ đầu tư (giai đoạn 1) khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn BOT của nhà đầu tư để thực hiện đầu tư dự án. Bao gồm: Ngân sách nhà nước 28.173 tỷ đồng; ngân sách địa phương 28.193 tỷ đồng; vốn BOT 29.447 tỷ đồng.
Đối với Dự án đường Vành đai 3 - thành phố Hồ Chí Minh, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn phân kỳ đầu tư (giai đoạn 1) khoảng 75.378 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước để thực hiện đầu tư dự án. Bao gồm: Ngân sách trung ương 38.741 tỷ đồng; ngân sách địa phương 36.637 tỷ đồng.
Dự kiến, thời gian thực hiện 2 dự án này từ năm 2022-2027.
Với tính chất là các dự án quan trọng quốc gia, để bảo đảm tiến độ đầu tư, tạo thuận lợi trong quá trình triển khai, Chính phủ đề xuất áp dụng các nhóm cơ chế, chính sách đặc biệt triển khai đầu tư dự án.
Về các cơ chế áp dụng chung cho cả 2 dự án, đối với nguồn vốn đầu tư, cho phép điều chỉnh Kế hoạch đầu tư công trung hạn (giai đoạn 2021-2025) đã bố trí cho Bộ Giao thông Vận tải về các địa phương để thực hiện theo phương án phân bổ tương ứng các dự án; cho phép sử dụng nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương đầu tư các dự án thành phần; cho phép tăng tổng mức vốn trung hạn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 từ các nguồn vốn dự kiến tăng thu của các địa phương; cho phép giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án trong trường hợp cần thiết, cấp bách trong khoảng thời gian giữa các kỳ họp của Quốc hội.
Về cơ chế chỉ định thầu, cho phép Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc chỉ định thầu trong quá trình triển khai thực hiện dự án đối với các gói thầu tư vấn, các gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật, các gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư và áp dụng trong 2 năm (2022-2023).
Về cơ chế riêng đối với Dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội, được phân chia Dự án thành 7 dự án thành phần và do các địa phương quyết định đầu tư, tổ chức thực hiện. Trình tự, thủ tục thực hiện các dự án thành phần tương tự dự án nhóm A theo quy định pháp luật về đầu tư công. Giao UBND thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện dự án bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ toàn dự án.
Riêng dự án thành phần 3: Đầu tư hệ thống đường cao tốc toàn tuyến và tuyến nối 9,7km đi trùng đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long, thực hiện theo phương thức PPP (loại hợp đồng BOT) được áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước để lựa chọn nhà đầu tư, không tính chi phí giải phóng mặt bằng trong tổng mức đầu tư dự án thành phần 3.
Riêng với Dự án đường Vành đai 3 - thành phố Hồ Chí Minh, sau khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, sẽ tổ chức thực hiện thu phí để thu hồi vốn đầu tư dự án cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương tương ứng theo phần vốn góp đầu tư.
Phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư hai dự án nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua và phù hợp với Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28-7-2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, trong đó yêu cầu “khẩn trương chuẩn bị đầu tư, sớm khởi công và cơ bản hoàn thành các dự án đường Vành đai 3, 4 của khu vực động lực Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh”.
Về sự phù hợp của dự án đối với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch có liên quan, ông Vũ Hồng Thanh cho biết, các dự án được lập cơ bản phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua; Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, phù hợp với quy hoạch của các ngành, các địa phương có liên quan và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (hai dự án được triển khai đầu tư trong giai đoạn 2021-2025).
Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng, đề xuất của Chính phủ đầu tư 2 dự án theo quy mô phân kỳ mặt đường 17m và 19,75m là chưa phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam về đường ôtô cao tốc, đồng thời, việc đầu tư theo quy mô này sẽ không có làn dừng xe khẩn cấp mà chỉ bố trí điểm dừng xe khẩn cấp, khó bảo đảm an toàn giao thông và dễ xảy ra tình trạng tắc nghẽn, làm giảm hiệu quả đầu tư...
Ngoài ra, cần rà soát cắt giảm tối đa các nút giao trên toàn tuyến để bảo đảm hiệu quả khai thác, an toàn giao thông và tối ưu tổng mức đầu tư của 2 dự án.
Chính phủ đã có các báo cáo tiếp thu, giải trình các ý kiến nêu trên. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị trong bước nghiên cứu khả thi, Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, chuẩn xác phương án thiết kế của 2 dự án nhằm xác định phương án tối ưu.
Một số ý kiến cho rằng, việc thực hiện thu hồi, bồi thường, tái định cư, dự trữ quỹ đất cho tuyến đường sắt trong khi tuyến đường sắt này không thuộc phạm vi đầu tư của Dự án và chưa rõ thời điểm đầu tư tuyến đường sắt là chưa hợp lý. Chính phủ đã có Báo cáo số 218 giải trình làm rõ đối với ý kiến nêu trên.
"Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ báo cáo, làm rõ hơn tiến độ đầu tư của tuyến đường này và trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả, tránh việc tái lấn chiếm quỹ đất đã được thu hồi nhưng chưa xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án”, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nói.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.