(HNM) - Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nêu lên tầm quan trọng của giáo dục. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, có sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đạt được những thành quả nhất định. Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hóa. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người đã được các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội.
Tuy nhiên, phần Dự thảo Báo cáo chưa nêu rõ được thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Cần phải hiểu rõ thực trạng nền giáo dục hiện nay thì mới đưa ra được những định hướng phát triển trong tương lai. Báo cáo cần đưa ra những con số cụ thể về nền giáo dục từ cấp học mầm non, tiểu học, trung học, đại học, sau đại học và dạy nghề, từ đó rút ra những gì đã làm được và chưa làm được cũng như so sánh với các nước trong khu vực để thấy được nước ta còn yếu kém trong những mặt nào. Báo cáo đề ra mốc thời gian phấn đấu đến năm 2030 đưa nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tuy nhiên, những giải pháp đưa ra một cách chung chung, chưa có lộ trình và hướng dẫn thực hiện cụ thể. Hiện nay, nguồn nhân lực của nước ta đang trong thời kỳ vàng của dân số, thể hiện trên bình diện trẻ về độ tuổi lao động, trình độ tay nghề tốt và kỹ năng lao động thành thạo, dễ tiếp thu cái mới và đào tạo. Tuy nhiên, vấn đề manh mún trong đào tạo và giáo dục ngày càng thể hiện rõ nét như:
- Không có chiến lược cụ thể trong phát triển mạng lưới các trường đào tạo, các cơ sở giáo dục cao cấp như trường đại học, viện nghiên cứu.
- Tỷ trọng ngân sách dành cho giáo dục quá thấp, ngang hàng với các nước kém phát triển, nghèo đói.
- Tỷ lệ sinh viên ra trường thất nghiệp quá cao, trình độ sinh viên quá thụ động, không có tư duy sáng tạo trong môi trường công việc, thiếu kỹ năng làm việc nhóm.
- Tỷ lệ phân bố nhân lực cao cấp như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư trong các tỉnh, thành chênh lệch quá cao, chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.
Chúng ta cần nghiên cứu các nền giáo dục hiện đại trên thế giới và khu vực để chọn lọc phương thức áp dụng vào Việt Nam. Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội cần có chiến lược rõ ràng về giáo dục, định hướng rõ trong 10 năm về việc đổi mới và phát triển giáo dục và thực sự coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu để phát triển đất nước". Trong đó, cần chú trọng việc tập trung vào việc đổi mới giáo dục đại học.
Là những người đang sinh sống, làm việc, nghiên cứu và học tập tại Hàn Quốc, cũng là những người luôn theo dõi bước chuyển mình của quê hương, tôi có một niềm tin mạnh mẽ là Việt Nam sẽ tạo ra những "kỳ tích Sông Hàn" như đất nước Hàn Quốc. Để thực hiện được điều này, tôi xin kiến nghị một số đề xuất như sau:
- Tăng tỷ lệ phần trăm dành cho giáo dục lên mức 5% GDP vì hiện nay tỷ lệ này quá thấp (nhỏ hơn 1% GDP). Mặt khác, trao quyền tự chủ cho các trường đại học có thể coi là một trong các biện pháp hữu hiệu để phát triển giáo dục đại học. Trường nào không có khả năng đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của quốc gia sẽ tự dần phải thay đổi hoặc tự đào thải chính mình.
- Giao quyền phong giáo sư và phó giáo sư cho các trường theo mô hình giống như các nước phát triển đã và đang làm. Giáo sư và phó giáo sư dựa trên những công bố trên tập san khoa học quốc tế, bằng phát minh sáng chế (patent), hoặc các thành tích nghiên cứu khoa học khác đã đạt được. Các trường đại học phải đóng vai trò là nhà nghiên cứu tiên phong, các giảng viên trong trường phải nghiên cứu và có các xuất bản khoa học chất lượng trình độ quốc tế.
- Giao trách nhiệm và trao niềm tin cho đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Tạo các cơ hội để cho họ cống hiến và chứng minh khả năng trên quê hương mình.
- Tuyển chọn và tài trợ cho những người có chuyên môn phù hợp với những việc mà xã hội và đất nước đang cần đến. Việc tài trợ cho đội ngũ này cần ở mức đủ để họ tập trung được vào nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ (thí dụ như họ được làm việc với điều kiện nghiên cứu tốt, có phụ cấp vài lần hơn mức lương cơ bản hiện nay). Ngược lại, họ phải đáp ứng được yêu cầu công việc là phải hợp tác được với nhau thành những nhóm nghiên cứu mạnh, nhận những nhiệm vụ cụ thể và chịu những trách nhiệm cam kết với Nhà nước.
- Cần khuyến khích các tập san khoa học Việt Nam vươn đến tầm quốc tế. Ở nước ta hiện nay, con số các tập san được quốc tế công nhận chỉ "đếm đầu ngón tay" và hệ quả là con số bài báo công bố trên các tập san Việt Nam không được công nhận. Và những bản thảo tạp chí khi xuất phát điểm ở Việt Nam thường khó được xuất bản trên các tạp chí quốc tế.
- Các chính sách về khoa học và giáo dục cần đề cao giá trị của các nghiên cứu khoa học có chất lượng (dựa trên số lượng bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế khoa học chuyên ngành và chỉ số trích dẫn của bài báo).
- Cải tiến mạnh mẽ cách xây dựng, tuyển chọn và đánh giá các chương trình, đề tài khoa học - công nghệ. Bắt buộc các công ty lớn tại nước ta phải có phòng nghiên cứu và phát triển, tăng cường việc phối hợp với các trường đại học trong nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, hàm lượng chất xám cao, tạo giá trị cho việc phát triển nền kinh tế.
- Tăng số lượng các trường đại học quốc tế hoặc hợp tác quốc tế để đào tạo nhân lực trình độ quốc tế ngay tại nước ta. Tập trung nâng cao 10 trường đại học trọng điểm của Việt Nam theo chiến lược 10 năm để nâng cao xếp hạng của những trường này theo xếp hạng quốc tế (đặt mục tiêu lọt vào tốp 200 thế giới). Cần thành lập chương trình mang chiến lược như chương trình Brain Korea 21 của Hàn Quốc đã thực hiện, định hướng và liên kết giữa giáo dục đại học và các nhà nghiên cứu trẻ, nguồn nhân lực trình độ cao trong việc phát triển khoa học, công nghệ, tăng trưởng vượt bậc cho nền kinh tế quốc gia.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.