(HNM) - Trong ca dao, ngạn ngữ Hà Nội có rất nhiều câu so sánh giữa trai và gái, ví như
"Gái Hàng Khoai, trai Hàng Lược"
Một thời, ám chỉ đàn ông ba trợn, côn đồ, nhiều người Hà Nội thường nói "còn hơn trai Hàng Lược", hay "chả kém con gái Hàng Khoai" khi nói về đám con gái nanh nọc, ghê gớm. Nhưng vài chục năm nay, không nghe thấy ai nói câu "Gái Hàng Khoai, trai Hàng Lược" nữa. Cũng không có ai truy xuất câu ngạn ngữ này dù nó phản ánh rõ nét xã hội Hà Nội thời Pháp thuộc…
Ngõ Tạm Thương. |
Đầu những năm 80 thế kỷ XIX, sông Tô Lịch bắt nguồn từ sông Hồng chảy qua các phố mà nay tương ứng là Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch, qua cửa chợ Đồng Xuân ăn ra cuối phố Hàng Khoai, sau đó chảy ngược lên phố Hàng Lược rẽ trái ra Phan Đình Phùng rồi đổ vào Hồ Tây vẫn còn là con sông đẹp. Nằm ở phía bắc Tô Lịch, một đầu gối với đê sông Hồng là thôn Huyền Thiên chuyên buôn bán khoai lang, khoai sọ từ các tỉnh đưa về, từ ngoại thành chuyển vào. Năm 1889, chính quyền thành phố cho lấp sông Tô Lịch lấy đất làm chợ Đồng Xuân thay cho chợ Cầu Đông đã quá chật hẹp thì thôn Huyền Thiên thành phố Hàng Khoai. Những ngày đầu, chợ Đồng Xuân chưa xây còn họp ở khoảng đất rộng, có rào quây xung quanh để thu thuế người vào bán hàng thì Hàng Khoai nằm sát chợ Đồng Xuân cũng thành nơi bán hàng lá thuốc Nam và các mặt hàng tiêu dùng vặt vãnh. Một thời gian sau, chợ Đồng Xuân được xây cất bằng khung sắt và họp hằng ngày nhưng theo lệ xưa, cứ 5 ngày lại có phiên. Chợ phiên đông đúc hơn ngày thường, bà con ngoại thành mang nông sản vào bán ngồi tràn ra cả Hàng Khoai. Kẻ mua người bán choán hết cả con đường nhỏ. Vào cuối năm, bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, chợ hoa họp ở cửa chợ Đồng Xuân kéo sang cả Hàng Khoai. Chợ phiên và chợ hoa họp trước khu vực cửa hàng khiến các bà, các cô ngồi sạp bực tức, thế là họ mắng mỏ, xua đuổi, nói tục nên người bán hàng nông sản phải im lặng tìm chỗ trống bày hàng. Và phiên nào cũng xảy ra những chuyện như vậy nên hình ảnh không đẹp về các cô bán hàng lan truyền trong dân đi chợ. Tuy nhiên giọt nước tràn ly chính là hai người đàn bà tai tiếng là Tư Đòn và Voi Xanh. Cả hai sống ở Hàng Lược nhưng đất làm ăn lại ở Hàng Khoai. Mụ Voi Xanh chỉ huy lũ đàn em thuê trọ ở ngõ Hàng Khoai chuyên móc túi và ăn cắp đồ của dân đi chợ phiên. Còn Tư Đòn là trùm nặc nô, ai thuê đòi nợ là ra tay ngay. Tư Đòn có thân hình cao lớn và nhiều lần dám đánh nhau với Tây khiến dân đi chợ phải "lè lưỡi, lắc đầu". Và câu "Gái Hàng Khoai" truyền từ người này sang người khác.
Vì nằm bờ Tây bắc sông Tô Lịch khi con sông này bị lấp phố bị đổi thành phố Tô Lịch, sau này chính quyền thành phố lấy lại tên Hàng Lược, vốn là cái tên có từ đời Lê Trung Hưng. Khi chính phủ bảo hộ cho làm cầu Long Biên thì Hàng Lược gần các gầm cầu dẫn. Và trong các khoang gầm cầu này dân lang bạt tứ chiếng tụ tập. Ít nhất có ba trùm du côn sống ở phố này gồm: Tư Đậu, Năm Bông và Ba Lập Lờ. Dưới trướng ba tay đàn anh là lũ đàn em sẵn sàng đánh bất cứ ai nếu nhận được cái nháy mắt. Thi thoảng du côn ở Hàng Lược ra đánh nhau với du côn phố Chợ Gạo. Những trận hỗn chiến khiến dân chúng kinh hoàng. Vì hai phố gần nhau và Hàng Khoai nằm ở phía trên nên quanh vùng có câu "Trên có gái Hàng Khoai, dưới có trai Hàng Lược" để chỉ những tay anh chị có thành tích bất hảo. Dần dần được rút gọn thành "Gái Hàng Khoai, trai Hàng Lược".
"Trai ngõ Trạm, gái Tạm Thương"
Câu ngạn ngữ này làm tốn giấy mực từ thời Pháp thuộc cho đến sau này. Có người cho rằng vì phố Hà Trung vốn là nơi đặt nhà trạm dịch, trong trạm có đội binh phu gồm toàn đàn ông to lớn, khỏe mạnh chuyên chuyển công văn giấy tờ, hay đưa quan lớn đến các trạm dịch tiếp theo, xong việc quan là họ cờ bạc, hút xách, gây sự với dân quanh vùng nên ai cũng kinh hãi. Còn "Gái Tạm Thương" chỉ đàn bà nanh nọc, ghê gớm có xuất xứ từ mấy bà chuyên cân thóc ở kho Tạm Thương thường quát tháo nông dân nộp thuế. Lại có người giải thích "Do các lính trạm, phu trạm cư ngụ trong ngõ dẫn vào nhà trạm ỷ thế "hỏa tốc" và hộ tống các quan lớn nên hay sừng sộ, hạch sách dân chúng khiến ai ai nghe tới danh "trai Ngõ Trạm" cũng khiếp sợ. Còn Tạm Thương là "cái kho tạm chứa thóc thuế các làng nộp trước khi chuyển vào kho chính trong thành. Kho tạm này đặt ở làng Yên Thái, gần đền Yên Thái trong ngõ Tạm Thương ngày nay, từ giữa phố Hàng Bông rẽ vào. Tại kho có nhiều phụ nữ làm việc cân đong và chuyển vận gạo thóc, những người này hay nạt nộ sách nhiễu dân tới nộp thuế nên gặp những gái Tạm Thương là nhiều người muốn tránh xa. Cho nên câu ngạn ngữ "Trai Ngõ Trạm, gái Tạm Thương", là sự ghi nhận lại hai hạng người lợi dụng nghề nghiệp và vị trí mà ăn hiếp dân ở Hà Nội xưa". Tuy khác về từ ngữ nhưng thông điệp trong hai cách giải thích giống nhau. Trai nhà trạm sừng sộ, hạch sách dân chúng chứ không phải trai sống ở ngõ Trạm nên phải là "Trai nhà trạm, gái Tạm Thương". Nhưng ngạn ngữ lại là "trai ngõ Trạm", vì vậy cách giải thích này không thuyết phục. Tương tự sẽ phải là "Gái kho tạm", chứ không phải "Gái Tạm Thương", và nếu giải thích như vậy thì câu ngạn ngữ sẽ là "Trai nhà trạm, gái tạm kho". Ở khía cạnh khác, nhà Nguyễn rất sùng Nho giáo nên họ không bao giờ tuyển đàn bà để làm việc quan.
Ngõ Trạm lúc Vua Minh Mạng đặt trạm dịch năm 1831 là đất thôn Yên Trung Thượng, dân cư thưa thớt và chủ yếu là người ở Tây Tựu (nay là quận Nam Từ Liêm) ra trồng hoa và trồng rau. Cuối thế kỷ XIX, có một người quê Ninh Hiệp tên là Thạch Văn Ngũ đi lính thợ trong thành được lính Pháp dạy nghề đóng yên và làm cương ngựa bằng da. Công việc hằng ngày của Thạch là sửa chữa hay làm yên mới, cương mới cho xe ngựa của quân đội Pháp, vốn là phương tiện chuyên chở chủ yếu. Giải ngũ, Thạch Văn Ngũ không về quê mà đi làm công cho hiệu đồ da Deleveau ở phố Hàng Thêu (phố Hàng Trống hiện nay). Thấy nghề da kiếm ăn được, Thạch vay vốn ra ngõ Trạm mở cửa hàng đóng yên ngựa và làm dây cương. Sở dĩ Thạch chọn ngõ Trạm vì phố Hàng Điếu gần ngõ cũng có nhiều gia đình làm nghề da để "buôn có bạn, bán có phường". Nghề đóng yên ngựa hay làm cương đòi hỏi phải có sức khỏe, chăm chỉ nên Thạch về quê tìm người rồi truyền nghề, khi họ thạo nghề, Thạch giữ lại làm thợ cho mình. Cuối thế kỷ XIX, xe ngựa là phương tiện chở hàng, chở người phổ biến ở Hà Nội nên công việc làm ăn của Thạch Văn Ngũ rất phát đạt. Dân Ninh Hiệp thấy nghề này kiếm ăn được đã vay vốn ra mở cửa hàng và xin Thạch Văn Ngũ một thợ giỏi nghề để kèm thợ mới. Từ Cửa Nam ra Hàng Điếu chỉ có con đường qua ngõ Trạm Hà Trung nên dân hay qua lại và ngày nào cũng thấy thợ làm từ sáng đến tối. Công việc lại ở ngoài trời nên da anh nào cũng đen bóng. Câu "trai ngõ Trạm" là lời khen đối với cánh thợ đóng yên ngựa.
Còn ngõ Tạm Thương và đoạn giao với ngõ Yên Thái cuối thế kỷ XIX, đầu XX có khá nhiều gia đình làm nghề thêu, họ đều là người Quất Động (huyện Thường Tín). Từ sáng cho tới khi mặt trời chuẩn bị lặn, lúc nào cũng thấy các cô ngồi bên khung thêu. Nghề thêu đòi hỏi khéo tay và chăm chỉ. Do ngồi trong nhà cả ngày nên da dẻ các cô trắng trẻo. Hàng thêu làm ra được họ mang bán tại phố Hàng Thêu. Câu "gái Tạm Thương" có ý nghĩa ngợi khen các cô gái làm nghề thêu khéo tay, chăm chỉ. Hiện trong ngõ Tạm Thương vẫn còn ngôi đình thờ Lê Công Hành, ông tổ nghề thêu. Ngôi đền này cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vẫn còn là nơi bày bán đồ thêu. Những anh chàng làm yên ngựa da đen, khỏe mạnh, chăm chỉ đối với các cô gái da trắng, khéo tay miệt mài bên khung thêu là rất hợp.
Có thể còn có người giải thích khác, điều đó làm nên sự thú vị khi khám phá kho tàng văn hóa dân gian ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.