(HNM) - 20 năm nay, những đứa trẻ tật nguyền ở Nhà văn hóa khu dân cư 11 phường Tân Mai (Hoàng Mai, Hà Nội) gọi cô giáo Nguyễn Thị Côi là mẹ. Bà giáo 72 tuổi mắt mờ, tay run vẫn hằng ngày cần mẫn lên lớp không quản nắng mưa.
Gian nan thử sức
Căn phòng nhỏ chỉ với một tấm bảng vừa phải, mười mấy cái bàn ghế và hai cái tủ con đựng những dụng cụ cần thiết trở thành nơi hạnh phúc của 14 "đứa trẻ", đều đã lớn tuổi. "Chị cả" của lớp năm nay xấp xỉ 30 tuổi còn "em út" cũng đã 14 tuổi nhưng nhận thức chỉ như đứa trẻ với những nụ cười hồn nhiên, những câu hỏi ngây ngô. Chung một phòng học nhưng mỗi em học một chương trình người lớp 1, người lớp 3, người lớp 5. Có lẽ điểm chung nhất giữa các em là hoàn cảnh, trò đùa trớ trêu của số phận. Những học trò đều là những em khuyết tật, bị tự kỷ, thiểu năng trí tuệ. Các em ngay từ nhỏ đã phải lăn lộn với cuộc mưu sinh, thiếu thốn tình cảm, sự quan tâm, dạy bảo từ bố mẹ nên tính cách và tâm hồn dường như cũng trở nên chai sạn với cuộc đời.
Lớp học Hy Vọng của cô giáo già Nguyễn Thị Côi. |
Ánh sáng đầu tiên của lớp học Hy Vọng là vào năm 1995, khi còn là Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ, cô Nguyễn Thị Côi tiên phong đi thuyết phục, tập trung và trực tiếp giảng dạy cho những học sinh đặc biệt của tổ chức Plan - dự án giáo dục từ thiện dành cho trẻ em nghèo, trẻ em khuyết tật và thiểu năng trí tuệ.
Để có thể thuyết phục được các em tham gia lớp học, chiều chiều sau những buổi lên trường cô lại lân la đến Ủy ban nhân dân các phường của quận Hai Bà Trưng để nắm danh sách. Cô tìm hiểu về hoàn cảnh từng em, âm thầm tìm đến những chân cầu, phòng trọ thuyết phục các em tham gia lớp học. Những ngày đầu tiên thật vất vả. Cô đã phải đến từng bàn, ngồi với từng em, nói chuyện giúp các em hòa nhập hơn. Những bài giảng đầu tiên thấm đẫm mồ hôi, nước mắt. Các em không thể ghi nhớ, học trước quên sau. Có học trò cô Côi phải dạy 3 tháng mới nhớ hết mặt chữ. Tưởng như khó khăn có thể khiến mọi người bỏ cuộc nhưng 9 năm gắn bó với dự án, lòng yêu thương của cô đối với những mảnh đời cơ cực lớn dần và trở thành vô hạn.
Tuy nhiên, nguồn tài trợ của Plan cũng có hạn, sau khi nguồn tài trợ bị cắt, dự án giống như người đi lạc trong rừng, không biết đi đâu về đâu. Nếu duy trì lớp học thì không có kinh phí mà các em học sinh lại là những đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn. Các em nuôi thân còn chưa nổi thì lấy tiền đâu ra để mua sách vở, bút thước… Nhiều lớp học thuộc dự án thành dang dở. Thương các em, nhiều đêm cô trằn trọc không ngủ: "Ước mơ đi học, cố gắng để học, nhưng không lẽ cái ước mơ đơn sơ đó thôi cũng không thể giúp các em thực hiện được?". Không cam lòng bỏ mặc các em cho dòng đời xô đẩy, cô lại chạy vạy ngược xuôi để xin tài trợ, thậm chí tự bỏ tiền lương của mình ra để mua sách vở, bút mực cho các em. Vậy là lớp học của cô Côi vẫn được duy trì.
Thấm thoắt, lớp học đầu tiên đó đã cách đây gần 20 năm, những khuôn mặt giờ đây gặp lại cũng đã khó nhận ra nhưng trong tâm trí cô giáo hình ảnh của những cô cậu học trò ngày nào vẫn còn nguyên vẹn. 20 năm qua vẫn là lớp học đơn sơ đó! "Trời rét còn đỡ, phải hôm trời nắng, phòng nhỏ hẹp, lại không có quạt nên dạy xong thì cả cô và trò đều ướt sũng mồ hôi. Còn những hôm trời mưa, nhà lại bị dột, nước mưa chảy vào lênh láng nhưng thấy các em vẫn say mê học nên mình cũng có động lực rất lớn" - bà giáo nhớ lại. "Tiếng lành đồn xa", giờ đây, cô giáo không phải đến từng nhà để vận động các em tham gia lớp học nữa mà chính những phụ huynh đã tự đưa con em mình đến gửi gắm và nhờ cô chỉ dạy.
Thầm lặng đưa những chuyến đò cập bến
"Dạy những học trò như thế này, mình phải hiểu được tâm lý các em. Dù có thế nào, mình vẫn luôn phải nhẫn nại, nhẹ nhàng, nếu dạy chữ này một ngày em không nhớ, tôi sẽ dạy cho đến khi em nhớ, đến khi nào em ấy có thể đánh vần, làm toán", bà giáo viên già trải lòng với chúng tôi.
Bà giáo kể về em Phan Thị Kim Dung, 14 tuổi. Không có nhà, Dung cùng mẹ sống ngoài bãi rác. Từ lúc sinh ra chưa biết mặt bố, mẹ lại bị bệnh tâm thần nên Dung không có điều kiện đến trường. Cô giáo thương trò, chạy vạy xin tài trợ để trò có cái ăn, cái mặc. Dung ngoan, viết chữ rất đẹp. Dung bộc bạch: "Hàng tháng con được cô cho gạo, bột canh, mì sợi và còn được đi học nữa. Con sẽ cố gắng học cho thật tốt để không phụ công ơn dạy dỗ, thương yêu của cô".
Chúng tôi còn gặp ông Lê Hồng Côn, nhà ở số 6, hẻm 4, ngách 88, ngõ 389 Trương Định ( Hoàng Mai, Hà Nội) là bộ đội về hưu. Trong thời gian tham gia chiến đấu, ông Côn bị nhiễm chất độc hóa học. Cả hai người con của ông hiện đều chịu di chứng nặng nề: Tổn thương hệ thần kinh. Người con cả bị tâm thần phân liệt. Lê Hồng Tâm, người con gái thứ hai bị dị tật từ khi lọt lòng mẹ. Năm nay 14 tuổi, cô bé có khuôn mặt sáng nhưng chân tay không lành lặn. Hồng Tâm cũng thường xuyên phải chịu những cơn động kinh có thể ập đến bất cứ lúc nào. Ông Lê Hồng Côn cho biết, nếu không có lớp học của bà giáo Nguyễn Thị Côi, chắc chắn con gái ông không biết chữ. Ông Côn nói: "Tôi thay mặt phụ huynh học sinh cám ơn cô Côi. Nếu không có những tổ chức chính trị - xã hội, không có cô Côi là người tâm huyết thì con chúng tôi không được cắp sách tới trường. Bây giờ, các cháu đã biết đọc, biết viết, biết cộng trừ nhân chia 4 phép tính, được hòa nhập với cộng đồng, với bạn bè, để sau này khi chúng lớn lên sẽ không ân hận rằng tuổi thơ của mình không được tới trường".
Bà giáo bùi ngùi nhớ lại, "Lần đầu tiên, sau khoảng 3 tháng dạy cho trẻ em lang thang cơ nhỡ thì một hôm có em chạy về bảo: Cô ơi, con đọc được chữ ở mấy tấm biển ngoài kia rồi. Hạnh phúc quá, vui mừng quá thế là hai cô trò ôm nhau khóc". Nhìn vào ánh mắt rơm rớm, ngân ngấn lệ của cô tôi hiểu rằng, với cô đó là niềm động viên, an ủi lớn nhất cho những tháng ngày vất vả đã qua.
Ở cái tuổi mà người ta sum vầy bên con cháu để an hưởng tuổi già, cô Côi vẫn ngày ngày tận tụy đến với lớp học Hy Vọng. Cô cười hiền: "Các em đã thiệt thòi quá rồi. Giúp cho những đứa trẻ biết được chữ cái, con số cũng là để cho các con bớt đi phần nào thiệt thòi trong cuộc sống. Tôi làm mọi thứ vì các con và không mong đợi điều gì ngoài việc các con khỏe mạnh và ngoan ngoãn. Đến đây tôi tìm thấy được những niềm vui, rèn luyện được sức khỏe, tránh được bệnh tật".
Bà Nguyễn Thị Ngọc Dung, Tổ trưởng Tổ dân phố 8, người bạn của bà giáo và cũng là người đồng hành suốt 20 năm của lớp học Hy Vọng cho biết: "Cô Côi rất nhân hậu và giàu tình thương. Cô đã giúp đỡ, cưu mang học sinh có hoàn cảnh khó khăn, bị khuyết tật, hay mắc bệnh thiểu năng trí tuệ, nhiễm chất độc da cam... mà không quản ngại điều gì. Tổ dân phố 8 rất biết ơn và ủng hộ cô giáo".
Lớp học còn nhận được sự giúp sức của một số tình nguyện viên là sinh viên của một số trường đại học nên công việc của cô đã bớt đi sự vất vả. Nhưng vai trò của người cầm lái vẫn không thể thay thế. "Tuổi cao rồi, tôi cũng không biết cống hiến được bao nhiêu năm nữa. Tôi chỉ mong sao toàn xã hội sẽ có sự quan tâm nhiều hơn nữa đối với những mảnh đời bất hạnh để các em đỡ thiệt thòi", bà giáo mong muốn.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.