(HNM) - Theo các nhà nghiên cứu cổ sử, hình ảnh người cầm cờ tín hiệu trên mũi thuyền cong khắc trên trống đồng Đông Sơn có thể là dấu hiệu của truyền tin bằng hiệu cờ. Quanh thành Cổ Loa hiện vẫn còn di tích các "hỏa đài", đây cũng là những di chỉ thể hiện cách thông tin thời xưa.
Dưới thời Lý Công Uẩn, các lệnh dụ, chiếu chỉ của vua, chức sắc trong triều ban ra, lập tức do một đội quân từ Thăng Long chuyển đến các phủ, huyện và hồi âm cũng theo đường dây đó trở lại Thăng Long. Khi Lý Thái Tôn lên ngôi (1028-1054), vị vua này bắt đầu đặt ra các nhà trạm. Để thuận tiện cũng như bảo đảm sức khỏe cho phu, năm 1043, vua Lý Thái Tôn đã phân chia các đường quan lộ ra từng cung, mỗi cung đặt một nhà trạm gọi là cung dịch hay trạm dịch. Phu từ Thăng Long đến trạm dịch đầu tiên, họ bàn giao công văn giấy tờ rồi quay trở về và trạm này có trách nhiệm tổ chức phu chuyển đến trạm kế tiếp, cứ thế cho đến khi lệnh dụ, chiếu chỉ đến được nơi nhận. Ngược lại, báo cáo của các phủ, huyện cũng theo các trạm dịch này để tới triều đình.
Dù chỉ cai quản Đại Việt trong 7 năm nhưng Hồ Quý Ly (1400-1407), đã có nhiều cải cách quan trọng, trong đó cho mở thêm đường cái quan thuận tiện cho giao thông liên lạc. Khi Lê Lợi tập hợp các hào mục kháng chiến chống quân Minh xâm lược (1418) thì Trần Nguyên Hãn lúc đó còn đi bán dầu và ông nuôi đôi chim bồ câu, dạy chúng đưa thư. Đến Lam Sơn phò Lê Lợi, ông đã mang theo đôi chim câu này. Lúc đang đóng quân ở thành Võ Ninh thì bị quân Minh vây chặt, Trần Nguyên Hãn đã viết thư gửi Lê Lợi rồi buộc vào chân chim. Nhờ thư do chim câu mang đến Lê Lợi biết được tình hình nguy cấp của Trần Nguyên Hãn, cho quân tiếp viện đến Võ Ninh phá vỡ vòng vây giải cứu. Sau khi đánh tan giặc Minh, vào thành Thăng Long và lên ngôi vua, mở ra triều đại nhà Lê, việc đầu tiên là ông tổ chức lại hệ thống liên lạc khá chặt chẽ. Trên các quan lộ có 54 cung dịch, các cung dịch này được xây tường gạch, xung quanh có hào nước, 4 góc có chòi canh. Mỗi trạm được biên chế 12 người, trong đó 10 phu là những người khỏe mạnh, một là đội phu và một phó đội cùng với 4 con ngựa lúc nào cũng trong tư thế chuẩn bị lên đường. Lính trạm ăn mặc như dân thường nhưng khi đi công vụ, phu trạm đeo lúc lắc đồng và qua làng mạc, họ lắc lên để dân biết mà tránh đường. Qua đò phà, phu trạm được ưu tiên đi trước. Nếu không cần gấp, phu sẽ đi bộ, còn nếu công văn khẩn thì họ đi ngựa. Với giấy tờ mà quan phê hai chữ hỏa tốc, phu trạm sẽ cầm một nắm lông gà hay bó đuốc cháy dở để làm hiệu cho mọi người dừng lại, dạt sang bên đường. Nếu mang tin chiến thắng về kinh đô thì phu trạm sẽ mang theo lá cờ hồng.
Bưu điện Hà Nội ngày nay. Ảnh: Nhật Nam |
Đến triều Nguyễn, trạm dịch tăng lên rất nhiều. Tên trạm được xác định bằng cách ghép tên tỉnh với tên thôn nơi đặt trạm. Dưới triều vua Minh Mạng (1820-1841), trên địa bàn Hà Nội có hai trạm là Hà Trung (ở thôn Yên Trung, tổng Tiền Nghiêm, sau đổi thành Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương, nay là phố Hà Trung, quận Hoàn Kiếm). Trạm thứ hai nằm ngay bên đường làng Hoàng Mai là trạm Hà Mai (nay là phường Hoàng Mai, quận Hoàng Mai). Triều Nguyễn coi phu trạm là viên chức, được hưởng lương như lính và chịu sự quản lý của Bộ binh. Công văn đựng trong ống tre, hai đầu có buộc giấy gắn nhựa thông, đóng triện nên gọi là ống công văn. Phu trạm được phát hỏa bài và khi đi công vụ, họ đeo trên cổ báo hiệu đi gấp. Hỏa bài làm bằng gỗ sơn trắng viền đỏ có khắc chữ mỗ huyện hỏa bài, nhờ đó mà công việc truyền tin có nhiều tiến bộ và chuyên nghiệp hơn. Từ Huế ra Hà Nội hơn 700 cây số nhưng phu chỉ đi 8 ngày 8 đêm là đến nơi.
Ngoài trạm dịch, các triều đại phong kiến còn dùng hình thức truyền tin khác. Theo truyền thuyết, trên đỉnh núi Bài Thơ (tên cũ gọi là "Núi truyền đăng" hay "Núi rọi đèn" ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh), nơi đây có phiến đá lớn dùng làm chỗ đốt lửa báo hiệu khi có biến ở biên thùy. Với cách này, các đồn binh thấy lửa cháy trên núi sẽ chuyển tiếp thông tin về triều đình để vua quan kịp thời ứng phó. Thế kỷ XVII, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vẫn sử dụng cách đốt lửa. Nguyễn Hữu Dật, một tướng giỏi nhà Nguyễn cũng xin lập "lạp đài" ở các cửa biển Quảng Bình để báo tin cho nhanh.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai. Để phục vụ cho việc thống trị và liên lạc năm 1884, Pháp đã lập Bưu cục Hà Nội cùng với các bưu cục Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây và Ninh Bình, đồng thời cho xóa bỏ trạm dịch Hà Trung và Hà Mai. Tuy nhiên, bưu cục đầu tiên do người Pháp mở ra tại Việt Nam không phải ở Hà Nội mà ở Sài Gòn. Ngày 11-4-1860, viên đại úy thủy quân Pháp là Daniel đã mở bưu cục đầu tiên ở Việt Nam nhưng bưu cục chỉ dùng cho binh lính trong quân đội Pháp. Ngày 17-3-1862, quân đội Pháp tại Sài Gòn khánh thành đường dây thép (sau này gọi là hữu tuyến) đầu tiên ở Việt Nam là Sài Gòn - Biên Hòa. Ngay sau đó, bức điện tín đầu tiên được đánh đi từ Biên Hòa lúc 6h53 và 3 phút sau ở Sài Gòn, tướng Bonard nhận được. Ngày 31-1-1863, thực dân Pháp khánh thành Bưu điện Sài Gòn nhưng chỉ để cho chính quyền sử dụng. Đến năm 1864, cùng với việc phát hành tem thư đầu tiên ở Nam kỳ, chính quyền cũng cho phép người dân sử dụng dịch vụ bưu chính. Thời kỳ này cả khu Sài Gòn - Gia Định chỉ có một bưu tá. Mỗi ngày bưu tá đi 2 chuyến xe ngựa chuyển thư, ông ta dõng dạc kêu tên chủ nhà và trao thư rất trịnh trọng.
Hoạt động của Bưu cục Hà Nội và bưu cục một số tỉnh ở Bắc kỳ chủ yếu là nghiệp vụ bưu chính, chuyển thư từ và công văn. Trước đó, năm 1883, người Pháp đã phát hành con tem đầu tiên ở Việt Nam có hình chim phượng hoàng, biểu tượng của Hoàng đế Napoleon Đệ tam. Việc sử dụng tem hạn hẹp, chỉ trong công sở, giới quan chức và số ít người giàu có, còn người nghèo không có nhu cầu. Một con tem trong nước giá 4 xu, giá một tiếng điện báo là 6 xu trong khi một cân gạo giá 3 xu. Năm 1886, Toàn quyền Đông Dương cho phát hành con tem đầu tiên dùng cho Nam kỳ và đến năm 1889 phát hành tem dùng chung cho ba nước Đông Dương. Cuối năm 1884, Pháp cho xây đường dây hữu tuyến Hà Nội - Sài Gòn dài gần 4.000km và hoàn thành vào năm 1888. Cũng trong thời kỳ này, họ xây dựng đường dây Hà Nội - Hải Phòng. Năm 1888 thông tin điện báo được thiết lập giữa Hà Nội với Sài Gòn, Vinh, Huế và Đà Nẵng. Năm 1889, Bưu điện Hà Nội có đầy đủ từ bưu chính, điện báo đến điện thoại. Làm việc trong bưu điện chủ yếu là người Pháp hoặc người ở các nước thuộc địa của Pháp. Nhân viên người Việt Nam hầu hết là người vào "làng tây", cai hoặc lính đã giải ngũ và dù được tin tưởng nhưng họ vẫn phải tuyên thệ trước tòa sơ thẩm. Lời tuyên thệ của mỗi người được ghi vào biên bản tòa án và lưu trong hồ sơ cá nhân. Nội dung như sau: "Tuyệt đối giữ bí mật những điều đọc được ở bức điện công hay tư, một công văn hay một bức thư. Nghe được cuộc điện thoại không nói cho ai biết dù là đồng nghiệp. Nếu vi phạm bí mật sẽ bị phạt tù". Lương của nhân viên người Việt chỉ bằng một phần mười, thậm chí một phần hai mươi so với nhân viên người Pháp.
Năm 1901, việc xây dựng nhà Bưu điện Trung tâm Hà Nội nằm ngay bên Hồ Gươm (người dân gọi là Bưu điện Bờ Hồ) hoàn thành.
(Còn nữa)
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.