(HNMO) – Tiếp tục chương trình làm việc, sáng nay, 2/11, Đại hội lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã làm việc tại hội trường, thảo luận về các văn kiện trình Đại hội.
Trước khi đi vào thảo luận, các đại biểu đã nghe đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng báo cáo kết quả Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XVI.
Thảo luận về một số giải pháp tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức thời kỳ hội nhập quốc tế của Hà Nội,đồng chí Nguyễn Kim Sơn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Đại học QG Hà Nội cho biết, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục và khoa học công nghệ lớn nhất của cả nước, là nơi có mật độ các nhà khoa học cao nhất. Hà Nội là nơi tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao và cả những khả năng để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nền kinh tế tri thức, dựa trên nền tảng tri thức là một hướng đi nhằm tận dụng và khai thác lợi thế của Hà Nội, đồng thời cũng là một đòi hỏi tất yếu của thời đại, của nhu cầu phát triển.
Bằng nhiều nỗ lực và cố gắng, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Hà Nội đã đạt mức cao nhất cả nước. Năm 2011, tỷ lệ này đạt 30,6% trong khi trung bình cả nước chỉ là 15,4%. Từ 2011 đến nay tỷ lệ tăng qua từng năm, năm 2014 là khoảng 35%, nhưng vẫn còn thấp. Chính vì vậy, một trong các chỉ tiêu quan trọng đã được dự thảo Báo cáo Chính trị của thành phố đề ra là “tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo đạt 70 - 75%”. Đây là một chỉ tiêu khá thách thức, nhưng quan trọng để đảm bảo nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội trong giai đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp theo.
Theo đồng chí Nguyễn Kim Sơn, để phát triển kinh tế tri thức, Hà Nội đương nhiên không chỉ đơn thuần cần một lực lượng đông đảo nguồn nhân lực đã qua đào tạo, mà hơn thế đó phải là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhân lực chất lượng cao là những người có năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc nhất, sáng tạo và có đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội, chứ không phải năng lực ở dạng tiềm năng.
Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải được xem xét tới tất cả các yếu tố nêu trên. Trước hết, Hà Nội cần chuyển dịch mạnh hơn nữa cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành có hàm lượng công nghệ, tri thức cao như nông nghiệp công nghệ cao, các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, đào tạo nghề trình độ cao… Việc chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế này là phù hợp với lợi thế nhân lực đang tập trung tại Thủ đô, đồng thời tạo sức hút và động lực cho sự phát triển nhân lực chất lượng cao.
Trong thời gian tới, Thành phố cần rà soát lại hệ thống các chính sách có liên quan tới việc thu hút, sử dụng, đãi ngộ và phát huy đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, mạnh dạn áp dụng thí điểm những chính sách mới phù hợp với đặc điểm riêng của Hà Nội. Nếu không làm tốt được điều này, nhân lực khoa học công nghệ và nhân lực chất lượng cao tập trung nhiều nhất tại Hà Nội nhưng lại không tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh tế xã hội của Thủ đô, không gia nhập thực sự vào đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho Thủ đô. Và như vậy Hà Nội đánh mất lợi thế quan trọng. Đối với điều kiện nhiều ưu thế như Hà Nội thì đây là hướng ưu tiên thứ nhất sau đó mới tới vấn đề tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao.
Đối với nhóm nhân lực lãnh đạo, quản lý, theo đồng chí Nguyễn kim Sơn, cần làm tốt công tác quy hoạch các vị trí lãnh đạo các sở ngành, các đơn vị, rà soát thực trạng và nhu cầu bồi dưỡng nâng cao. Việc đào tạo và phát triển đội ngũ lãnh đạo quản lý chất lượng cao cần gắn chặt với quy hoạch lãnh đạo các cấp trên địa bàn Hà Nội. Với nhóm đối tượng này cần chú trọng bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo quản lý hiện đại, không nhất thiết phải đào tạo theo các chương trình đào tạo sau đại học như thạc sĩ, tiến sĩ. Các chỉ tiêu đào tạo đội ngũ này, thay vì xác định số lượng người có học vị cần đạt được cho các chức danh lãnh đạo, quản lý thì cần thiết phải xác định được các chỉ số năng lực cần đạt được sau đào tạo.
Đối với đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ, Hà Nội nên chú trọng đào tạo, phát triển đội ngũ có khả năng ứng dụng hiệu quả các kiến thức, thành tựu khoa học. Với ưu thế là một địa phương có sự quy tụ của ¾ lực lượng lao động khoa học , Hà Nội có thể sử dụng nhân lực này để tham gia vào thực hiện các hoạt động nghiên cứu, triển khai. Việc khai thác, sử dụng có thể theo cơ chế đặt ra các nhiệm vụ, nhóm nhiệm vụ, nhóm dự án mà không cần phải tuyển dụng về các cơ quan liên quan của thành phố hay quận huyện. Cần tạo cơ hội cho các nhà khoa học tiếp cận với các nguồn đầu tư, với hệ thống các đề tài dự án một cách thuận tiện. Thành phố cần đặt đầu bài, đặt yêu cầu cụ thể cho các nhà khoa học nhiều hơn nữa và tạo điều kiện triển khai thực hiện.
Đồng chí Nguyễn Doãn Toản – Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Tài chính với tham luận “Các giải pháp huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển Thủ đô, bài học kinh nghiệm và định hướng trong thời kỳ tới”.
Ông Nguyễn Doãn Toản cho biết: trong những năm qua Sở Tài chính đã chủ động phối hợp với các Sở, ban, ngành tham mưu UBND Thành phố các giải pháp huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu phát triển Thủ đô, cụ thể:
- Đã tập trung tham mưu Thành phố huy động các nguồn lực ngoài ngân sách để phát triển kinh tế Thủ đô thông qua việc: Xây dựng trình Thành phố ban hành các cơ chế, chính sách huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế; khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia xã hội hóa các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao, môi trường; Xây dựng các cơ chế chính sách huy động vốn theo Luật Thủ đô; Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán, các quỹ Tài chính địa phương triển khai huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội của Thành phố.
- Chủ động đề xuất Thành phố các giải pháp tăng cường chống thất thu ngân sách, đôn đốc kịp thời các khoản nợ vào ngân sách; sắp xếp, tiết kiệm chi thường xuyên tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển; phát hành trái phiếu xây dựng Thủ đô, Tham mưu UBND Thành phố báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét nâng mức dư nợ nguồn vốn huy động nhằm đáp ứng nguồn vốn thực hiện các công trình trọng điểm, các dự án quan trọng của Thành phố, góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án, sớm đưa vào hoạt động phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô (dự kiến hết năm 2015 vốn huy động đạt 11.400 tỷ đồng.
- Kiến nghị UBND Thành phố, Bộ Tài chính sắp xếp xử lý các cơ sở nhà đất tạo nguồn thu cho ngân sách, tăng hiệu quả sử dụng đất đai, cải thiện cảnh quan đô thị. Đến nay, đã sắp xếp lại, xử lý tại 47 bộ, ngành Trung ương và 17 Tổng công ty nhà nước, với 1.439 cơ sở nhà đất; 1.139 cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp thuộc thành phố với 10.579 cơ sở nhà đất (thu về ngân sách sau sắp xếp là 4.403 tỷ đồng).
- Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước được tập trung đầu tư các công trình hạ tầng khung, các công trình quan trọng tạo động lực phát triển kinh tế; 5 năm qua, Thành phố đã thực hiện nhiều dự án và chương trình lớn, ưu tiên hạ tầng đô thị, kịp thời bổ sung vốn cho các công trình trọng điểm. Diện tích công viên cây xanh, hồ nước tăng lên. Hệ thống bệnh viện, trường học, nhà trẻ, nhà văn hóa được đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng sống của nhân dân Thủ đô. Bên cạnh đó, hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật khu vực ngoại thành được tập trung đầu tư theo chủ trương của Thành ủy (hàng năm ngân sách thành phố đầu tư gần 1.000 tỷ đồng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn); ước đến hết năm 2015 toàn thành phố sẽ có 179/386 xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 46,4% tổng số xã, cao so với tỷ lệ 20% của cả nước.
Đồng chí Nguyễn Doãn Toản cũng nêu những khó khăn, hạn chế trong công tác huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn trong những năm qua như:
- Dù đã nỗ lực song nguồn lực tài chính so với nhu cầu còn thấp, dẫn đến Thành phố phải thực hiện sắp xếp, giãn, hoãn tiến độ các dự án sử dụng vốn ngân sách trong đó có cả các dự án trọng điểm, ảnh hưởng đến tiến độ, hiệu quả dự án.
- Công tác quản lý và sử dụng vốn ngân sách dù đã có những chuyển biến tuy nhiên vẫn còn hạn chế: Phân bổ kế hoạch vốn đầu tư vẫn còn dàn trải; năng lực triển khai dự án của một số chủ đầu tư, đơn vị thi công, các đơn vị tư vấn còn chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp quản lý ở một số nơi còn chưa quyết liệt, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong triển khai các công việc liên quan đến hoạt động đầu tư một số nơi còn chưa chặt chẽ, công tác GPMB vẫn còn khó khăn do vướng mắc về cơ chế chính sách...
- Ngoài ra, hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai, tài sản công, nhất là quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước còn chưa cao, có lúc, có nơi còn lãng phí.
Từ những hạn chế này, đồng chí Nguyễn Doãn Toản nêu một số bài học:
- Bám sát các quy định của pháp luật, chủ trương, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố và Bộ Tài chính để xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể sát với thực tiễn tạo sự đồng thuận, thống nhất và thường xuyên tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc cho các đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện.
- Chủ động nắm bắt ý kiến phản hồi từ cơ sở, doanh nghiệp, để phối hợp các ngành liên quan đề xuất với Thành phố các giải pháp, cơ chế chính sách huy động đa dạng hóa nguồn vốn và quản lý hiệu quả các nguồn vốn.
- Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính; Tăng cường sự hỗ trợ, phối hợp công tác của các ngành, các cấp góp phần nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho UBND Thành phố trong việc huy động và quản lý nguồn lực tài chính.
- Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu và đầu tư. Tạo điều kiện cho nhà đầu tư, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách.
- Tiếp tục tập trung và tăng cường cải cách các thủ tục hành chính liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi người nộp thuế; Thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính; góp phần hạ thấp giá thành sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Đẩy mạnh các giải pháp khai thác, quản lý, chống thất thu ngân sách.
- Đa dạng hóa các phương pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển Thành phố phù hợp với quy định của pháp luật.
- Tiếp tục xem xét phát hành trái phiếu xây dựng công trình cho một số dự án thuộc lĩnh vực y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, đê điều, thủy lợi. Phối hợp với các Bộ kêu gọi tài trợ chính thức của nước ngoài cho các dự án lớn có yêu cầu kỹ thuật cao. Nâng cao hơn nữa vai trò làm chủ của Việt Nam trong việc đàm phán, tiếp nhận các khoản tài trợ ODA để các điều kiện ràng buộc riêng của từng nhà tài trợ hài hoà với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách Tài chính theo thẩm quyền của Thành phố và thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh; Đẩy nhanh quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, các quy hoạch phân khu, quy hoạch ngành…
- Đẩy mạnh việc giải phóng các nguồn lực trong khu vực DNNN thuộc Thành phố thông qua các biện pháp tái cấu trúc hoạt động sản xuất - kinh doanh, cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê... ; Quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên, đất đai, công sản…
- Tăng cường công tác quản lý chi ngân sách nhà nước, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, hoàn thiện quy trình quản lý dự án đầu tư: ngay từ khâu lập chủ trương đầu tư dự án, thực hiện dự án, đưa dự án vào khai thác sử dụng và quản lý sau đầu tư: Dự án phê duyệt đầu tư phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố, phù hợp quy hoach chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đã được phê duyệt đồng thời bám sát mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 – 2020 ; Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan tài chính nhằm đẩy nhanh tiến độ, giảm thời gian, thủ tục trong thanh toán vốn đầu tư…
- Tăng cường sự giám sát của HĐND, Mặt trận tổ quốc và Đoàn thể các cấp trong việc huy động, quản lý và sử dụng ngân sách; công khai ngân sách theo quy định của Luật ngân sách cùng với đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm…
Tham luận về tăng cường công tác chỉ đạo, tham mưu tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết 29 của BCH Trung ương Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của thành phố Hà Nội, đồng chí Nguyễn Hữu Độ, Thành ủy viên, Giám đốc Sở GD & ĐT Hà Nội cho biết, những thành tựu quan trọng cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục mà Ngành GD & ĐT Hà Nội đạt được trong những năm qua đã góp phần vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và đất nước.
Trong 5 năm qua, quy mô, mạng lưới trường học từng bước phát triển, Hà Nội hiện có 2557 trường học và các cơ sở giáo dục với trên 1.6 triệu học sinh cơ bản đã đáp ứng được đa dạng nhu cầu học tập của học sinh Thủ đô. Thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục Mầm non 5 tuổi vào năm 2013, hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2 vào tháng 7/2015, hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và 90% thanh niên trong độ tuổi có trình độ THPT hoặc tương đương. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được tăng cường: đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo và được nâng cao về chất lượng đào tạo.
Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, với mục tiêu là tạo sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển Thủ đô và đất nước, thời gian tới, ngành Giáo dục thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Chú trọng quan tâm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt coi trọng việc hình thành và phát triển đội ngũ: Đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp; phấn đấu có nhiều nhà giáo mẫu mực, cán bộ quản lý mẫu mực với phẩm chất tốt, chuyên môn giỏi, phong cách đẹp, tâm huyết và trách nhiệm với nghề. Đối với cán bộ quản lý giáo dục, phải lựa chọn được những người vừa công tâm, vừa có kiến thức và tinh thần trách nhiệm cao, những yếu tố tạo nên bản lĩnh của người cán bộ quản lý. Cần phải chú trọng chuẩn hoá trong các khâu: tiếp nhận và luân chuyển; đánh giá và đào tạo bồi dưỡng; sử dụng và đãi ngộ. Có chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài về công tác trong ngành giáo dục. Phấn đấu, đến năm 2020 tất cả giáo viên tiểu học, THCS và 80% giáo viên mầm non phải có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên; đối với THPT phải có ít nhất 30% giáo viên có trình độ trình độ thạc sĩ trở lên và đến năm 2020 có 50 - 55% cán bộ, giáo viên, nhân viên là đảng viên.
Giải pháp 2: Tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trường lớp theo hướng đồng bộ, chuẩn hoá, tiên tiến và từng bước hiện đại. Triển khai thực hiện tốt Qui hoạch phát triển hệ thống giáo dục Thủ đô và xây dựng Qui hoạch phát triển mạng lưới trường học của Hà Nội đến năm 2020 tầm nhìn 2030 đã được thành phố phê duyệt. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu đến năm 2020 Thành phố có 70 % trường MN Phổ thông công lập đạt chuẩn quốc gia. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình kiên cố hóa trường lớp, hoàn thành xóa các phòng học cấp 4 xuống cấp, tiến tới hoàn thành xóa các phòng học cấp 4 ở tất cả các cấp học vào năm 2020. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý tài chính, thực hiện quy chế công khai, xây dựng và áp dụng mức học phí mới từ năm học 2016-2017 đồng thời chấn chỉnh công tác quản lý thu, chi trong các cơ sở giáo dục, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục.
Giải pháp 3: Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động các nguồn lực ch¨m lo cho phát triển giáo dục. Chú trọng phát triển hệ thống các trường ngoài công lập phù hợp với quy hoạch phát triển mạng lưới trường học của Thủ đô. Bố trí cân đối, hài hoà giữa công lập và ngoài công lập ở mỗi cấp học. Tiếp tục thí điểm một số trường học hoạt động theo mô hình trường chất lượng cao để đáp ứng với đa dạng nhu cầu học tập của học sinh Thủ đô.
Giải pháp 4: Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục một cách thực chất, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Giải pháp 5: Đổi mới công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng, thực hiện mục tiêu: “Kỷ cương nghiêm - Chất lượng thực - Hiệu quả cao” trong mọi hoạt động của ngành, từ việc dạy của thầy đến việc học của trò; từ việc quản lý chuyên môn, nhân sự đến việc quản lý tài chính, cơ sở vật chất, từng bước khắc phục sự chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các trường học.
Đồng chí Nguyễn Tất Thắng – Thành ủy viên, Bí thư Huyện ủy – Chủ tịch HĐND huyện Đan Phượng với tham luận “Những kinh nghiệm trong huy động nguồn lực từ việc XHH để xây dựng hạ tầng nông thôn”.
Đan Phượng là huyện ven đô nằm phía Tây Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 20km, diện tích đất tự nhiên 7.735,48 ha, dân số 162.856 người.
Đồng chí Nguyễn Tất Thắng cho biết, trước khi xây dựng nông thôn mới, Đan Phượng là một huyện nông nghiệp, toàn huyện mới đạt bình quân gần 10 tiêu chí, chưa có quy hoạch chung xây dựng huyện, hạ tầng kỹ thuật còn khó khăn, không đồng bộ; số thu ngân sách hàng năm đạt thấp, đầu tư chủ yếu dựa vào ngân sách Thành phố, trong khi đó nhu cầu đầu tư xây dựng nông thôn mới rất lớn.
Thực hiện Chương trình 02, ngày 29/8/2011 của Thành ủy về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, huyện Đan Phượng xác định đây là cuộc cách mạng trong nông nghiệp, nông thôn.
Huyện Đan Phượng xác định:
- Quy hoạch phải đi trước một bước, đây là căn cứ quan trọng để xác định đầu tư, là cơ sở để huy động nguồn lực, đồng thời làm đâu được đó, tránh lãng phí.
- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, đây vừa là giải pháp, vừa là mục tiêu, là cơ sở để tăng thu nhập nâng cao đời sống nhân dân.
- Xây dựng hạ tầng là động lực, thực chất là tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển, là điều mà nhân dân dễ cảm nhận thấy sự thay đổi và được thụ hưởng ngay thành quả.
- Cán bộ là khâu quyết định, là người tổ chức đồng thời là người gương mẫu thực hiện.
- Sự đồng thuận và tích cực tham gia của người dân là nền tảng.
Huyện xác định việc đầu tiên phải làm là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động để mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Đồng thời tập trung chỉ đạo lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới với phương châm: Đồng bộ, phù hợp tiêu chí, sát với thực tiễn, dân chủ, có tính khả thi cao. Kết thúc năm 2011, các xã đã hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn mới trình UBND huyện phê duyệt. Lựa chọn những dự án ưu tiên phù hợp với khả năng kinh phí và nhu cầu của người dân. Các hình thức huy động nguồn lực đa dạng: Nhân dân hiến đất làm đường, đóng góp ngày công lao động và kinh phí, kêu gọi các doanh nghiệp hỗ trợ và những người con xa quê hương đóng góp chung tay xây dựng nông thôn mới.
Đồng chí Nguyễn Tất Thắng cho biết thêm, trước khi có Quyết định số 16 (2012) của UBND thành phố Hà Nội, UBND huyện có Quyết định số 01/2012/QĐ-UBND ngày 04/4/2012 về hỗ trợ 29% giá trị vật liệu để cải tạo nâng cấp đường giao thông xóm ngõ. Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất cho 8 dự án sản xuất hoa chất lượng cao, rau an toàn, cây ăn quả, sản xuất lúa - cá; hỗ trợ các giống cây trồng mới.
Để có hạ tầng cho nông thôn mới, ngoài hỗ trợ của Thành phố, huyện chủ động khai thác các nguồn thu từ đất (đấu giá quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất từ các dự án đô thị, thu tiền thuê đất, xử lý đất xen kẹt...) để đầu tư với 2 khâu đột phá là: “Đấu giá quyền sử dụng đất và giải phóng mặt bằng” để huy động nguồn lực. Tập trung đầu tư các công trình lớn: đường giao thông, các công trình bảo vệ môi trường, những vấn đề dân sinh bức xúc tạo thế và lực mới cho huyện.
Để tạo động lực và huy động sức đóng góp của nhân dân, huyện chủ trương ứng trước 100% vật liệu chính (cát, đá, sỏi, xi măng), nhân dân đóng góp ngày công lao động để xây dựng đường xóm ngõ và đường giao thông nội đồng. Trong hai tháng cuối năm 2012, các xã trong huyện đã cơ bản hoàn thành xây dựng đường làng, ngõ xóm.
Tổng số vốn đã huy động là 1.982 tỷ đồng; trong đó ngân sách thành phố 542 tỷ đồng; ngân sách huyện 883 tỷ đồng; ngân sách xã: 122 tỷ đồng; nhân dân đóng góp 205 tỷ đồng; vốn lồng ghép 4 tỷ đồng; vốn doanh nghiệp 97 tỷ đồng; các nguồn vốn khác 129 tỷ đồng.
Đồng chí Nguyễn Tất Thắng nêu rõ, qua thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện Đan Phượng rút ra một số kinh nghiệm bước đầu:
1- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải đi trước một bước; tuyên truyền được đặt lên hàng đầu với nhiều hình thức phong phú, theo hướng gọn, rõ.
2- Phát huy dân chủ, thực hiện việc công khai, minh bạch trong tất cả các khâu, nhất là việc huy động và sử dụng các nguồn lực từ nhân dân.
3- Quan tâm đầu tư cho phát triển, đồng thời chủ động tháo gỡ, giải quyết những vấn đề bức xúc của dân. Trong 5 năm đã quan tâm đầu tư cho phát triển cộng đồng như đã xây dựng được 45 nhà văn hóa, nhà hội họp, khu vui chơi, giải trí, đài truyền thanh, thư viện, thông tin, nhà luyện tập, nhà thi đấu thể thao.
4- Vận dụng sáng tạo, linh hoạt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, quy định của UBND Thành phố.
5- Cán bộ phải năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tâm huyết, trách nhiệm, vì dân.
Về nhiệm vụ trong thời gian tới, đồng chí Nguyễn Tất Thắng nêu ra một số nội dung:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, động viên, khích lệ toàn dân tiếp tục chung sức xây dựng nông thôn mới.
- Chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVIII và đại hội Đảng bộ huyện Đan Phượng lần thứ XXIII. Trong đó, chú trọng việc thực hiện nội dung về xây dựng nông thôn mới.
- Vận động nhân dân duy tu, bảo dưỡng thường xuyên các công trình xây dựng, chỉnh trang nhà cửa, đường làng ngõ xóm, thực hiện vệ sinh khu dân cư sáng - xanh - sạch - đẹp; phát huy truyền thống văn hóa, thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, mừng thọ, lễ hội, ứng xử văn hoá; đoàn kết trong cộng đồng thôn, xóm, cụm dân cư.
Đồng chí Nguyễn Tất Thắng cũng kiến nghị:
- Đề nghị Thành phố tiếp tục ban hành các cơ chế chính sách để tạo điều kiện hỗ trợ cho sản xuất trong giai đoạn mới khi có hiệp định thương mại TPP. Sớm cho huyện triển khai các dự án để phát triển sản xuất, trước hết là dự án phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề 2 xã Liên Hà, Liên Trung để giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nông dân.
- Đề nghị Thành phố tổ chức cho huyện Đan Phượng nói riêng và các huyện đi tham quan và học tập kinh nghiệm của các huyện xây dựng nông thôn mới ở trong và ngoài nước.
Đồng chí Lê Thị Thu Hằng - Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Thành phố với tham luận “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh”.
Đồng chí Lê Thị Thu Hằng cho biết, là một trong 60 đảng bộ trực thuộc Thành ủy Hà Nội, với 64 tổ chức cơ sở đảng, trên 7.300 đảng viên, Đảng bộ Khối các cơ quan Thành phố luôn gương mẫu, đi đầu trong thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo, góp phần quan trọng tạo nên những kết quả nổi bật, toàn diện của Thủ đô trong 5 năm qua.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Thành ủy, Đại hội lần thứ XII Đảng bộ Khối các cơ quan Thành phố, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra định hướng: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”, bà Lê Thị Thu Hằng cho biết, bên cạnh việc thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được Đại hội XII của Đảng và Đại hội XVI Đảng bộ Thành phố đề ra, Đảng bộ Khối các cơ quan Thành phố xây dựng 2 chương trình công tác nhiệm kỳ 2015 - 2020 về công tác xây dựng Đảng và cải cách hành chính, qua đó tập trung lãnh đạo, tạo chuyển biến tiến bộ trên các mặt: công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; công tác kiểm tra, giám sát, công tác tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp tổ chức thực hiện nghị quyết, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên với nâng cao hiệu lực…
Đồng chí Lê Thị Thu Hằng cũng nêu một số nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong thời gian tới như sau:
Một là, tập trung lãnh đạo, tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, bảo đảm lý luận đi trước, soi đường, làm sáng rõ hơn các nội dung căn cốt, như: mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền.
Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, từng bước xây dựng hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả.
Ba là, tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp, bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Cần quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm. Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ các cấp.
Bốn là, coi trọng xây dựng văn hoá trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân.
Năm là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước sao cho nghị quyết khi ban hành phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hoá, thể chế hoá, tổ chức thực hiện nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; đổi mới cách thức quán triệt, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, khắc phục những thủ tục rườm rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.
Sau giờ giải lao, Đại hội tiếp tục thảo luận với những ý kiến tham gia đóng góp của các Đại biểu.
* Đồng chí Phạm Quang Thanh – Tổng công ty Du lịch Hà Nội với tham luận “Khai thác tiềm năng thế mạnh của Hà Nội nhằm phát triển ngành du lịch trở thành nganh kinh tế mũi nhọn của Thủ đô”.
Đồng chí Phạm Quang Thanh, cho biết, tính đến nay, Hà Nội có hơn 5.000 di tích văn hóa lịch sử, nhiều nhất trong cả nước, trong đó có khoảng 1.050 di tích được xếp hạng quốc gia (chiếm tỷ lệ gần 20% của cả nước); nhiều di tích đã được UNESCO công nhận như: Hoàng Thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cùng hàng loạt các di tích quốc gia đặc biệt như: Chùa Một Cột, di tích Cổ Loa, đền Ngọc Sơn và khu vực Hồ Hoàn Kiếm, chùa Thầy, chùa Tây Phương, đền Sóc, khu di tích và danh thắng Hương Sơn...
Hà Nội là nơi tập trung nhiều các lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, nổi bật như hội Gióng, hội đền Cổ Loa, lễ hội Đống Đa, các lễ hội của Thăng Long tứ trấn, lễ hội phủ Tây Hồ hay lễ hội chùa Hương - lễ hội hành hương lớn nhất và dài nhất cả nước,... tạo sức hấp dẫn bền vững đối với du khách. Hà Nội có 1.350 làng nghề và làng có nghề chiếm 59% tổng số làng, 47 nghề trên 52 nghề của toàn quốc. Nhiều làng nghề thủ công truyền thống từ lâu đời với những sản phẩm độc đáo được ưa chuộng và rất thu hút khách du lịch như: đúc đồng Ngũ Xã, gốm Bát Tràng, lụa Hà Đông...
Hà Nội cũng là thành phố có nét văn hóa ẩm thực tinh tế, phong phú và đa dạng, được ấn phẩm du lịch nổi tiếng thế giới Lonely Planet xếp vào danh sách 10 thành phố ẩm thực hấp dẫn nhất thế giới.
Về cơ sở vật chất, hạ tầng du lịch, ông Phạm Quang Thanh cho biết:
- Tính đến tháng 9/2015, Hà Nội có 3.081 cơ sở lưu trú phục vụ du lịch, với khoảng 38.000 phòng, chiếm tỷ lệ 20% cả nước (trong đó có 14 khách sạn 5 sao, 56 khách sạn 4 sao, 3 sao); có 1.500 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành hoạt động, trong đó có 600/1.425 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế cả nước đã được Tổng cục Du lịch cấp giấy phép (chiếm tỷ lệ 42% so với cả nước).
- Hà Nội có các cơ sở dịch vụ ăn uống, ẩm thực phong phú, cafe-shop, bar, các tiện nghi dịch vụ phục vụ hội nghị trong khách sạn; các cơ sở mua sắm, bán hàng lưu niệm, hệ thống trung tâm thương mại, siêu thị, tòa nhà văn phòng lớn; các cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí, văn hóa, thể thao với một số loại hình dịch vụ cao cấp như: sân golf, trượt băng và công viên nước trong nhà...
- Hạ tầng giao thông của Hà Nội ngày càng được cải thiện và đầu tư mở rộng, tạo thuận lợi cho du khách tham quan. Công trình nhà ga T2 hiện đại cùng với tuyến đường cầu Nhật Tân - sân bay Nội Bài giúp rút ngắn thời gian hành khách di chuyển về thủ đô Hà Nội; một số lượng xe xích lô, ô tô điện được cấp phép phục vụ tham quan khu vực phố cổ và xung quanh Hồ Tây, có đội tàu du lịch chạy trên tuyến sông Hồng.
Về nguồn nhân lực, Hà Nội có số lao động trực tiếp trong lĩnh vực dịch vụ du lịch với số lượng lớn, ước tính 88.000 người, tập trung ở các lĩnh vực: lữ hành, khách sạn, vận chuyển khách du lịch, dịch vụ vui chơi giải trí và các dịch vụ phục vụ du khách khác.
Về sản phẩm du lịch, Hà Nội có phong phú các loại hình, sản phẩm du lịch. Một số sản phẩm được du khách đánh giá cao như: du lịch sinh thái, giải trí, thể thao, nghỉ dưỡng, nghỉ cuối tuần tại khu vực Đồng Mô, Ba Vì, Hương Sơn, Ao Vua, Quan Sơn; du lịch làng nghề (gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, thêu Quất Động, mây tre đan Phú Vinh, gốm Hương Canh); du lịch văn hóa (thăm các đền chùa như chùa Hương, chùa Thầy, chùa Tây Phương, đền Lô, đền Đầm)...
Đồng chí Phạm Quang Thanh khẳng định, trong giai đoạn 5 năm vừa qua (2010 - 2014), dù gặp nhiều khó khăn do tác động và chịu ảnh hưởng lớn của suy thoái kinh tế chung, nhưng du lịch Hà Nội đã khẳng định vai trò, vị trí là một ngành kinh tế lớn. Lượng khách du lịch Hà Nội có tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, mức tăng trưởng bình quân hơn 10% (Năm 2010: đạt 12,3 triệu lượt khách, trong đó có 1,7 triệu lượt khách quốc tế, 10,6 triệu lượt khách nội địa. Năm 2014: đạt 18,5 triệu lượt khách, trong đó có 3,0 triệu lượt khách quốc tế, 15,5 triệu lượt khách nội địa); tăng trưởng bình quân doanh thu du lịch ổn định mức 15,1%.
Để du lịch Thủ đô Hà Nội tiếp tục phát triển một cách bền vững, tương xứng với tiềm năng và thế mạnh, thực hiện định hướng phát triển du lịch đến năm 2020, ông Phạm Quang Thanh đề xuất một số giải pháp:
- Hà Nội cần tập trung đầu tư cho những sản phẩm du lịch là thế mạnh của mình, đồng thời quảng bá, giới thiệu đến đúng các đối tượng khách du lịch phù hợp. Hà Nội có nhiều điều kiện để phát triển du lịch Mice (du lịch hội nghị, hội thảo). Ngoài ra, Hà Nội cũng có nhiều lợi thế để tổ chức loại hình tour khác như: du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái, thăm danh lam thắng cảnh...
- Tiếp tục đầu tư, phát triển, nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng du lịch như khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, mua sắm... theo hướng đồng bộ. Khuyến khích đầu tư những khu du lịch, điểm du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ, giữ gìn cảnh quan môi trường, tình hình an ninh trật tự tại các điểm du lịch, giải quyết dứt điểm hiện tượng chèo kéo, ép giá, ép khách làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và ấn tượng của du khách. Ứng xử thân thiện, văn minh đối với du khách, xây dựng thương hiệu, hình ảnh của Thủ đô Hà Nội, đem lại sự tin cậy và hài lòng của du khách.
- Tăng cường đào tạo để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn nghiệp vụ giỏi.
- Hiện tại, nguồn thu từ ngành du lịch vẫn dựa trên khai thác các di sản, tài nguyên sẵn có, “hữu xạ tự nhiên hương”. Mặc dù có đóng góp đáng kể vào ngân sách thành phố, tuy nhiên đầu tư trở lại cho du lịch lại chưa tương xứng. Nếu coi du lịch như là một ngành kinh tế mũi nhọn, thành phố cần tăng cường ngân sách tái đầu tư vào ngành du lịch. Đồng thời, cũng rất cần sự phối kết hợp đồng bộ, tốt hơn cả về cơ chế, chính sách cũng như sự tham gia của một số ngành, lĩnh vực có liên quan. Ngoài việc nhận biết và ra sức phát huy tiềm năng, lợi thế cũng như khắc phục những hạn chế, yếu kém của mình, ngành du lịch thủ đô cũng cần nỗ lực học hỏi kinh nghiệm của các nước ở khu vực và thế giới.
Đồng chí Vũ Văn Viện - Uỷ viên Ban Thường vụ ĐUK, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Giao thông vận tải Hà Nội với tham luận: “Những giải pháp thực hiện khâu đột phá về kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, giảm ủn tắc giao thông và tai nạn giao thông trên địa bàn TP Hà Nội”
Đồng chí Vũ Văn Viện cho biết, một trong những kết quả nổi bật mà Đảng bộ Thành phố đã chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả là Chương trình số 06-CTr/TU về đẩy mạnh công tác quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015 và Chương trình số 07-CTr/TU về tập trung xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015.
Với tinh thần ấy, Thành phố Hà Nội đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông Vận tải hoàn thành các dự án giao thông quan trọng do Bộ Giao thông vận tải làm Chủ đầu tư như: tuyến đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ - Ninh Bình; tuyến Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nội - Lào Cai; tuyến đường 5; Đường vành đai 3 trên cao; đường Nhật Tân - Nội Bài; nhà ga T2 - Cảng hàng không quốc tế Nội Bài... các cầu Vĩnh Thịnh, Phù Đổng 2, Nhật Tân. Thành phố cũng đã ưu tiên nguồn lực chủ động đầu tư xây dựng và hoàn thành một số công trình kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng như cầu Đông Trù, đường 5 kéo dài; tuyến Quốc lộ 32; kết nối các đường vành đai 1, vành đai 2, vành đai 2,5; cầu Mỗ Lao, đường Trần Phú - Kim Mã và đặc biệt là sự chủ động, tích cực đi trước trong cả nước nghiên cứu xây dựng 07 cầu vượt bằng kết cấu thép tại các nút giao thông, đầu tư xây dựng Trung tâm điều khiển đèn tín hiệu giao thông kết nối 200 nút đèn tín hiệu giao thông và 400 camera giám sát giao thông tại các nút giao thông quan trọng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ông Vũ Văn Viện cũng nêu những khó khăn, hạn chế như : việc suy thoái kinh tế cũng ảnh hưởng đến nguồn lực đầu tư xã hội, dẫn đến các công trình còn chậm tiến độ, các tuyến đường vành đai 1, vành đai 2, vành đai 3 còn chưa được kết nối hoàn chỉnh, các tuyến xe buýt nhanh vận chuyển khối lượng lớn (BRT) và đường sắt đô thị chưa được đưa vào sử dụng, phương tiện giao thông cá nhân vẫn có chiều hướng tăng nhanh, ý thức người tham gia giao thông còn hạn chế, vì vậy tình hình ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố trong thời gian qua vẫn còn diễn biến phức tạp.
Đồng chí Vũ Văn Viện đóng góp một số giải pháp sau:
1. Tiếp tục chủ động trong việc phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải và các tỉnh trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc rà soát hoàn thiện quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông Hà Nội trên cơ sở phù hợp nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến 2030 tầm nhìn 2050, phù hợp với quy hoạch phát triển giao thông vận tải Việt Nam và quy hoạch vùng Thủ đô để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Căn cứ quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thành phố Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, lựa chọn các công trình giao thông quan trọng để sắp xếp thứ tự ưu tiên đầu tư xây dựng phù hợp với khả năng huy động nguồn lực đầu tư trong giai đoạn 2016 - 2020 đảm bảo tính khả thi và tính kết nối.
3. Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện phân công, phân cấp hợp lý trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng, đảm bảo tính đồng bộ thống nhất giữa các chủ đầu tư cấp Thành phố và sự chủ động của các chủ đầu tư cấp quận, huyện, trong đó việc chuẩn bị quỹ nhà tái định cư phục vụ công tác giải phóng mặt bằng phải được tính toán cụ thể và đi trước một bước.
4. Hoàn thiện cơ chế quản lý, khuyến khích và thu hút nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP, BT, BOT... cùng với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng. Đặc biệt là các công trình giao thông hiện đại như các tuyến đường sắt đô thị, đảm bảo việc vận hành tuyệt đối an toàn và hiệu quả.
5. Mở rộng và nâng cao chất lượng vận tải hành khách công cộng có lộ trình và các biện pháp thích hợp (cả biện pháp hành chính và kinh tế) nhằm từng bước tăng tỷ lệ hành khách sử dụng giao thông công cộng, hạn chế giao thông cá nhân, nhất là xe máy tại một số khu vực trung tâm.
6. Xây dựng lộ trình và có bước đi thích hợp trong việc xây dựng hệ thống giao thông thông minh cho Thủ đô Hà Nội. Trong đó tập trung ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hệ thống giao thông thành phố trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin để kết nối đèn tín hiệu giao thông, camera giám sát giao thông tại các nút giao thông và các tuyến đường trọng điểm. Kết nối và quản lý phương tiện giao thông công cộng, xe buýt, xe khách liên tỉnh, xe taxi... bằng hệ thống định vị GPS.
7. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền động viên, khuyến khích các hộ dân trong diện giải phóng mặt bằng chấp hành tốt chủ trương giải phóng mặt bằng theo đúng các quy định của pháp luật.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về trật tự an toàn giao thông, kết hợp với việc xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm Luật Giao thông từng bước xây dựng nếp sống tự giác chấp hành pháp luật về giao thông. Xây dựng văn hóa giao thông của người dân Thủ đô Hà Nội.
Đồng chí Trần Huy Sáng, Thành ủy viên, Giám đốc Sở Nội vụ với tọa đàm “Thực hiện cải cách hành chính của TP đáp ứng yêu cầu đẩy mảnh CNH – HĐH và hội nhập quốc tế”.
Đồng chí Trần Huy Sáng nhất trí với với báo cáo chính trị đã trình trước Đại hội. Đồng chí Trần Huy Sáng cho biết, trong nhiệm kỳ qua, công tác cải cách hành chính luôn được Thành phố quan tâm chỉ đạo, quán triệt tới các cấp, các ngành; việc tổ chức triển khai, thực hiện các Chỉ thị của UBND Thành phố về: “Năm kỷ cương hành chính 2013”, Năm trật tự và văn minh đô thị 2014 và 2015 đã có sự chuyển biến tích cực gắn với ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan, đơn vị.
Qua tổng kết Chương trình số 08-CTr/TU về công tác cải cách hành chính giai đoạn (2011 - 2015) đã khẳng định: Có được kết quả to lớn như trên là do Thành phố đã xác định đúng vị trí và tầm quan trọng của cải cách hành chính là 1 trong 2 khâu đột phá, đặc biệt là đã xác định được chính xác nội dung của khâu đột phá, đó là:
Thứ nhất, Trong năm năm qua, Thành phố tiếp tục rà soát cải cách thủ tục hành chính (TTHC), trong đó quan tâm đến TTHC ở cấp cơ sở xã, phường, quận, huyện vì đây là những TTHC liên quan trực tiếp đến nhiều người dân; quan tâm đến các TTHC liên thông giữa các cấp, ngành để làm rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan. Các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết TTHC đã chủ động hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân đến giải quyết TTHC; thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông theo hướng văn minh, hiện đại. Đến nay, tổng số TTHC công khai trên Cổng giao tiếp điện tử Thành phố là 1.749 thủ tục, trong đó thẩm quyền giải quyết của các sở, ban, ngành Thành phố là 1.349 TTHC; cấp huyện là 271 TTHC; cấp xã là 129 TTHC. UBND Thành phố đã công bố ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ hoặc bãi bỏ 757 TTHC.
Đặc biệt, Thành phố là một trong những địa phương tiên phong đi đầu triển khai thực hiện Đề án: Thí điểm thực hiện cơ chế một cửa trong việc cung cấp dịch vụ công tại một số doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Thành phố.
Thứ hai, Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập quốc tế của Thủ đô, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Thủ đô. Nhiệm kỳ qua, Thành ủy, HĐND, UBND và các cấp chính quyền của Thành phố luôn quan tâm đến việc thực hiện nghiêm kỷ cương hành chính. Thành phố đã chọn năm 2013 là năm kỷ cương hành chính, năm 2014 và 2015 là trật tự và văn minh đô thị.
Thành phố đã xây dựng Đề án nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền các cấp giai đoạn 2012 - 2016, trong đó đưa ra các giải pháp nhằm kiện toàn tổ chức, tạo sự đồng bộ trong hoạt động quản lý, điều hành của UBND các cấp, các cơ quan chuyên môn trực thuộc...
Thành phố triển khai, thực hiện Đề án “Thí điểm mở lớp đào tạo 1.000 công chức nguồn của Thành phố giai đoạn 2012 - 2015”.
Thứ ba, Thành phố thường xuyên quan tâm đến việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, rút ngắn quy trình, nâng cao chất lượng giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước đối với tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố. Đến nay, Thành phố đã cung cấp 100% các dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 tại các sở, ban, ngành, cấp huyện, cấp xã; đã triển khai và cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 thuộc 10 nhóm dịch vụ công cơ bản và 72 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 thuộc nhóm dịch vụ đặc thù.
Để tiếp tục tạo bước đột phá, ông Trần Huy Sáng đề xuất trong thời gian tới Thành phố cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Một là, tiếp tục đầu tư hạ tầng CNTT và ứng dụng CNTT trong quản lý, điều hành và giải quyết TTHC, thực hiện các dự án về CNTT; chú trọng triển khai ứng dụng CNTT trong phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp; các ứng dụng như phần mềm một cửa, một cửa liên thông kết nối với các đơn vị...
Hai là, tiếp tục rà soát, đơn giản hóa các TTHC, tập trung ở các TTHC liên thông, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc xây dựng quy trình và giải quyết TTHC; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công; thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông theo hướng văn minh, hiện đại...
Ba là, đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức; tạo bước chuyển biến mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức...
Đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Thế Kết Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Chính ủy BTL Thủ đô Hà Nội với tham luận “Tăng cường tiềm lực quốc phòng của TP và sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang Thủ đô theo tinh thần NQ Trung ương 8 khóa XI.
Đồng chí Đặng Việt Quân, Phó Bí thư Quận Đống Đa với tham luận: “Kết quả và kinh nghiệm trong lãnh đạo thực hiện đề án 06-ĐA/TU về việc “Kiện toàn, sắp xếp tổ chức Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư, tổ dân phố, thôn, xóm ở xã, phường, trên địa bàn dân cư, tổ dân phố, thôn, xóm ở xã, phường, thị trấn thuộc TP Hà Nội” ở Đảng bộ quận Đống Đa.
Đồng chí Đặng Việt Quân cho biết, Đống Đa là Quận nội thành cũ, dân số, mật độ dân cư đông, hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đồng bộ, đang trong quá trình hoàn thiện. Đảng bộ Quận có gần 2,7 vạn đảng viên; 106 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc. Trong những năm qua, công tác thu ngân sách trên địa bàn Quận hàng năm vượt chỉ tiêu được giao hơn 25%; công tác quản lý đô thị, văn hóa xã hội, giáo dục, đào tạo có đạt nhiều kết quả phấn khởi…
Căn cứ vào tình hình thực tế của hệ thống chính trị tại địa bàn các phường trực thuộc Quận, Ban Thường vụ Quận ủy đã ban hành Kế hoạch số 86-KH/QU ngày 01/11/2013 về việc sắp xếp chi bộ khu dân cư, tổ dân phố đồng bộ với hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư, tổ dân phố ở các phường thuộc Quận theo Đề án 06 của Thành ủy, với các nội dung cơ bản như sau:
- Một là, thống nhất mô hình tổ chức dân cư trên địa bàn Quận. Dân cư ở các phường được tổ chức theo tổ dân phố.
- Hai là, tập trung chỉ đạo thành lập, điều chỉnh, chia tách, hợp nhất các chi bộ trên địa bàn dân cư để đảm bảo thực hiện thống nhất theo mô hình dưới đảng bộ phường là chi bộ tổ dân phố lãnh đạo 01 tổ dân phố (hoặc một số tổ dân phố), 01 ban công tác mặt trận, các chi hội đoàn thể trên địa bàn.
- Ba là, Thống nhất mô hình tổ chức của các ban công tác mặt trận và đoàn thể chính trị - xã hội phường. Thống nhất tên gọi của các ban công tác mặt trận và đoàn thể chính trị xã hội tương ứng với tên gọi của các chi bộ tổ dân phố, theo số thứ tự từ 1 đến hết trên địa bàn tất cả các phường trực thuộc.
Đồng chí Đặng Việt Quân cho biết, qua thực tiễn, Quận Đống Đa rút ra một số kinh nghiệm bước đầu:
- Ngay sau khi Thành ủy ban hành Đề án số 06, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Quận ủy đã nhận thức sâu sắc hiệu quả, tầm quan trọng của Đề án. Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm để tập trung chỉ đạo, nêu quyết tâm cao phải hoàn thành thắng lợi.
- Coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc kiện toàn sắp xếp đồng bộ hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư đối với cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên và đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tạo sự đồng thuận, quyết tâm, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện các chủ trương, giải pháp đề ra trong việc kiện toàn sắp xếp tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa bàn dân cư Đề án của Thành ủy, Kế hoạch của Quận ủy.
- Việc sắp xếp, kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa bàn dân cư thuộc các phường phải được tiến hành khoa học, theo lộ trình từng bước thận trọng, đảm bảo đúng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Thành phố và Quận. Đảm bảo sự ổn định - đồng bộ - thống nhất trên địa bàn từng phường và trong toàn Quận, có tính đến điều kiện thực tế của từng phường.
- Trong quá trình thực hiện, phải quan tâm theo dõi sát sao, thường xuyên đôn đốc hướng dẫn các phường rà soát, điều chỉnh, lắng nghe các ý kiến góp ý từ cơ sở để xây dựng phương án kiện toàn, sắp xếp có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện thực tế của từng phường.
Đồng chí Lê Văn Thư, Thành ủy viên, Bí thư Quận ủy, Chủ tịch HĐND Quận Bắc Từ Liêm, với tham luận “Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015)” đãnêu bật 4 nội dung chính:
Thứ nhất, dự thảo Văn kiện chính trị Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước tác động đến việc thực hiện Nghị quyết; những tác động thuận lợi và không thuận lợi, những thời cơ và thách thức đối với nước ta trong 5 năm qua với diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường. Chúng ta thấy rằng, trong nhiệm kỳ qua, tình hình thế giới, khu vực tác động mạnh đến nước ta, ở trong nước, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo những điều kiện và tiền đề thuận lợi cho sự phát triển đất nước trong nhiệm kỳ 2011 - 2015.
Thứ hai, về những thành quả đạt được, dự thảo đánh giá: "Nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng". Tôi cho rằng đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục.
Thứ ba, về nguyên nhân của thành quả đạt được, những thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, Đảng bộ quận Bắc Từ Liêm nhất trí với những nguyên nhân mà dự thảo Văn kiện đã nêu như: sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề phát sinh; Hoạt động của Quốc hội được đổi mới, nâng cao chất lượng, ngày càng đi vào thực chất, dân chủ; chất lượng ban hành luật, pháp lệnh được nâng lên, tăng cường công tác giám sát tối cao của Quốc hội; Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp đã quản lý, điều hành năng động, thường xuyên bám sát diễn biến của tình hình để đưa ra các chủ trương, giải pháp phù hợp; quan tâm đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế và đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành nền kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường; Tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa để huy động các nguồn lực, các giai tầng xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, về những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, Đảng bộ quận Bắc Từ Liêm đề nghị bổ sung thêm một số hạn chế, khuyết điểm như: Cần phân tích kỹ những nguyên nhân chủ quan dẫn đến những khuyết điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, vấn đề thực hiện phòng chống tham nhũng, thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng nhất là ở cơ sở; vấn đề xây dựng con người, vấn đề nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 chưa đạt được kết quả mong đợi, khuyết điểm phổ biến là tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Chưa xử lý dứt điểm được một số vấn đề, gây bức xúc trong nhân dân; một số văn bản dưới luật ở một số lĩnh vực còn chồng chéo, một số quy định luật và dưới luật chưa thực sự đi vào cuộc sống; hạn chế trong lĩnh vực xây dựng, giao thông; chủ yếu xuất khẩu hàng hóa ở dạng thô, chưa có công nghệ, hàm lượng chất xám cao, giá trị kinh tế thấp; việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật chưa được quan tâm tâm đầu tư đúng mức; năng suất lao động thấp, cơ khí chế tạo nghèo nàn, công nghiệp phụ trợ không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu; trong hoạt động tư pháp vẫn để xảy ra nhưng án oan sai, làm lệch hồ sơ, ép cung, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa chưa cao v.v…
Đảng bộ quận Bắc Từ Liêm nhất trí với những nguyên nhân khách quan, chủ quan và những bài học kinh nghiệm mà dự thảo đã nêu. Năm bài học mà Dự thảo Văn kiện đã nêu vừa cụ thể vừa có tính khái quát cao, có giá trị tích cực cho việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Đảng bộ quận Bắc Từ Liêm đề nghị Trung ương nghiên cứu, bổ sung thêm một bài học kinh nghiệm nữa, đó là: “Phải phát triển kinh tế - xã hội mang tính bền vững”. Bởi vì trong thời gian qua có lúc, có nơi, một số địa phương chưa chú trọng đến việc phát triển kinh tế bền vững, mà chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế. Do đó, việc phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, với sự tham gia góp ý dân chủ, rộng rãi, Văn kiện chính trị Đại hội XII của Đảng sẽ là sự kết tinh trí tuệ và tình cảm tâm huyết của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trở thành quyết tâm chính trị to lớn để đưa đất nước ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, tạo nền tảng vững chắc sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đồng chí Nguyễn Quang Huy, Trưởng Ban Nội chính Thành ủy Hà Nội với tham luận: "Tập trung chỉ đạo có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn Hà Nội".
Đồng chí cho biết, tham nhũng là một trong bốn nguy cơ liên quan tới sự tồn vong của chế độ, là giặc nội xâm, là thách thức rất lớn đe dọa sự tồn vong của chế độ, làm cho bộ máy của Đảng và nhà nước bị suy yếu, giảm lòng tin của nhân dân. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được Đảng, nhà nước khẳng định là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Với phương châm “Chủ động phòng ngừa, phát hiện kịp thời, ngăn chặn có hiệu quả, xử lý nghiêm minh”, trong nhiệm kỳ qua Đảng bộ Hà Nội đã triển khai đồng bộ các giải pháp, huy động cả hệ thống chính trị, nhờ vậy công tác phòng chống tham nhũng của Thành phố đã có những bước chuyển biến tích cực.
Qua thực tiễn triển khai thực hiện và giải quyết những khó khăn, vướng mắc để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn thành phố Hà Nội, có thể khái quát một số kinh nghiệm sau: Một là, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, giám sát, nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan chuyên trách. Hai là, thường xuyên chỉ đạo việc giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức. Ba là, thường xuyên kiểm tra đôn đốc, kịp thời động viên khen thưởng, xử lý vi phạm. Bốn là, chỉ đạo tăng cường phối, kết hợp giữa các cơ quan có chức năng. Năm là, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Năm năm tới, các cấp ủy Đảng Thành phố cần tiếp tục tập trung chỉ đạo có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí với những nhiệm vụ trọng tâm là:
1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền trong việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng.2. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về PCTN
3. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính và công tác cán bộ.
4. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện những cá nhân có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng.
5. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước và đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức.
Đồng chí Ngọ Duy Hiểu - Thành ủy viên, Bí thư Huyện ủy Phúc Thọ với tham luận "Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhất là sinh hoạt chuyên đề, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng".
Đồng chí cho biết, góp phần vào kết quả chung của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Ban Thường vụ Huyện ủy Phúc Thọ đã xác định công tác đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhất là sinh hoạt chuyên đề là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng của Huyện giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo, nổi bật là:
- Ban hành Đề án số 01-ĐA/HU về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhất là chi bộ trên địa bàn dân cư”, Đề án số 02-ĐA/HU về “Xây dựng và phát hành Bản tin sinh hoạt chi bộ”.
- Tổ chức gặp mặt, trao đổi kinh nghiệm, tập huấn công tác Đảng, bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp tổ chức sinh hoạt chi bộ định kỳ, sinh hoạt chuyên đề cho toàn bộ bí thư các chi bộ trên địa bàn Huyện.
- Tổ chức Hội thi “Bí thư chi bộ giỏi” huyện Phúc Thọ năm 2014.
- Chỉ đạo đồng loạt tổ chức các đợt sinh hoạt chi bộ chuyên đề theo chủ đề từng năm hoặc theo nhiệm vụ trọng tâm, vấn đề bức xúc của địa phương.
- Đảng ủy các xã, thị trấn thực hiện nghiêm chế độ chi bộ dân cư tổ chức sinh hoạt trước, chi bộ cơ quan xã, thị trấn tổ chức sinh hoạt sau.
Sinh hoạt chi bộ đã được thực hiện nền nếp, bài bản, nghiêm túc rõ rệt; tạo nên thành quả chung trên tất cả các lĩnh vực: An ninh chính trị được giữ vững; kinh tế phát triển; hệ thống chính trị có nhiều đổi mới, ngày càng vững mạnh; văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ huyện Phúc Thọ còn một số hạn chế cần khắc phục. Do đó, Huyện ủy Phúc Thọ kiến nghị, đề xuất như sau:
- Trong hướng dẫn đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm, Trung ương cần đưa ra các tiêu chí cụ thể hơn đối với từng loại hình tổ chức đảng.
- Thành ủy sớm ban hành quy định, hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ giữa tổ chức đảng với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị ở thôn, về chức năng, nhiệm vụ chi bộ trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
- Ban Tổ chức Thành ủy tổ chức các hội nghị chuyên đề, giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm về mô hình, cách làm hay trong sinh hoạt ở các loại hình chi bộ.
- Thành phố quan tâm, nâng mức kinh phí hỗ trợ hoạt động đối với chi bộ và chế độ chính sách đối với đội ngũ bí thư chi bộ.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.