(HNMCT) - Nhiều năm trở lại đây, công chúng yêu thơ ghi nhận chân dung một nhà thơ đã có nhiều đóng góp cho nền thơ ca hiện đại. Đó là nhà thơ Nguyễn Hòa Bình, một người lính trở về sau chiến tranh, một nhà báo năng động trong nhiều mảng đề tài. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, người giành giải A Cuộc thi thơ tình năm 2006 - 2007 do tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Nguyễn Hòa Bình sinh năm 1953, quê ở miền đất trung du Vĩnh Phúc nhưng phần lớn cuộc đời gắn bó với Hà Nội. Nhập ngũ đầu năm 1972, ông tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hết chiến tranh, ông xuất ngũ, đi học đại học rồi trở thành nhà báo.
Ông từng công tác tại Báo An ninh Thủ đô nhưng gắn bó lâu dài nhất với Báo Hànộimới trên các cương vị Phó Trưởng ban Thư ký Tòa soạn, Giám đốc Trung tâm phát hành và Trưởng ban Hà Nội Ngày nay (ấn phẩm chuyên san của Báo Hànộimới).
Nhà báo Nguyễn Hòa Bình “tác chiến” linh hoạt ở nhiều thể loại, đề tài. Những bài viết của ông về các thể loại phóng sự, ký sự, ghi chép... đã góp phần làm tờ báo Đảng thêm hấp dẫn, được độc giả yêu thích.
Là một nhà thơ, ngòi bút của ông cũng luôn đau đáu nhân tình thế thái và dạt dào cảm xúc, điều này đã chứng minh qua tập thơ "Lửa than" của ông. Đọc thơ ông, ta dễ dàng nhận ra một con người yêu và sống chân thật đến tận cùng.
Trong bài thơ "Lửa than", ông viết: “Ta nhận về mình cực nhọc/ Ta nhận về mình cay đắng thời gian/ Ủ thành than/ Mơ cháy”. Qua thơ ông, người đọc cảm nhận được cái tứ sâu xa: Trước khi hóa thành ngọn lửa, hãy ủ kỹ từ than hừng hực nóng, bởi sức nóng vô biên đó mới giúp ta có thể “mơ cháy” được. Bởi nếu không được "ủ” kỹ, biết đâu đó lại là lửa rơm, bùng phát, bốc cao nhưng chóng lụi tàn. Ngọn lửa của sự sống tất nhiên phải xuất phát từ chính cuộc đời, đôi khi đủ cả đôi dòng trong - đục. Nhưng, nếu không từ mạch nguồn đời sống, sao có thể bùng lên ngọn lửa này: “Mai này về chốn không không/ Từ trong hư ảnh có bùng lửa than?”. Và "Lửa than" thực sự là một bài thơ đậm chất triết lý.
Cái khát khao sự sống với bao tin yêu, hy vọng đã giúp nhà thơ Nguyễn Hòa Bình khắc họa thêm nhiều chân dung cuộc sống dù nhiều gian khó nhưng đẹp đến nao lòng. Đi thực tế ở miền núi Thanh Hóa, nơi giao thông còn trắc trở, đời sống đồng bào còn thiếu thốn trăm bề, nhưng cảnh sắc thiên nhiên, bản chất cần cù đôn hậu của người dân, đặc biệt là vẻ đẹp của những thiếu nữ Thái đã lay động tâm hồn nhà thơ: “Sông Lò chảy vắt ngang chiều Thanh Hóa/ Có lẽ nào không về với Quan Sơn/ Ta tìm lại Na Mèo phiên chợ ấy/ Mắt ai cười nghiêng ngả cả hoàng hôn” ("Về với Quan Sơn"). Và bài thơ tình ấy trở thành hiện tượng văn học đặc biệt khi được in trong cuốn "Sổ tay Đảng viên" của Huyện ủy Quan Sơn.
Là người lính trở về sau chiến tranh, Nguyễn Hòa Bình may mắn được tiếp tục bút nghiên trên giảng đường đại học, trong khi nhiều đồng đội vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Chứng kiến nỗi đau mất mát trong chiến tranh, ở bài thơ "Hoa cải ngồng", ông đã ký thác tâm sự ấy bằng những câu thơ thật nhân bản: “Anh có biết, em đã chờ anh mãi / Mọi lỡ lầm. Thôi. Đừng trách... chiến tranh/ Dù anh vẫn trở về. Và em... đã/ Cải lỗi ngồng. HOA, mãi nở trong anh”.
Có người đã định nghĩa, thơ là tiếng nói của trái tim, phát ra từ trái tim và trở về với trái tim. Ở trường hợp ví von này, có lẽ rất đúng với Nguyễn Hòa Bình. Chỉ bằng 4 câu thơ rất rung cảm, rất tinh tế, ông đã phác họa chính xác thành phố Sơn La: “Thị xã nhỏ mang hình cánh võng/ Nửa mắc vào mây nửa mắc vào rừng/ Chỉ chợt gió đã rối lòng phố núi/ Sơn La chiều đá cũng bâng khuâng” - "Sơn La".
Hơn bốn mươi năm làm báo và làm văn, tình yêu văn chương cháy bỏng và sức lao động nghiêm túc, cẩn trọng của nhà thơ Nguyễn Hòa Bình thật đáng nể. Ông đã xuất bản 4 tập thơ riêng: "Tìm về" (1998), "Hỏi mình" (2004), "Lửa than" (2018), "Một vùng văn hóa Hà Thành" (2019) và 11 tập in chung với nhiều thể loại như truyện ký, thơ lục bát trữ tình...
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.