(HNM) - Được xem là
Tỷ lệ có BHXH, BHYT thấp
Theo PGS - TS Hoàng Bá Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu dân số, Môi trường và Các vấn đề xã hội (Trường Đại học KHXH&NV), kết quả khảo sát 345 lao động nữ di cư tại 3 tỉnh, thành phố là Hải Phòng, Quảng Ninh và TP Hồ Chí Minh do Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương thực hiện cho thấy, về bảo hiểm xã hội, có sự khác biệt rất lớn giữa phụ nữ di cư (PNDC) làm công nhân và phụ nữ lao động tự do. Trong khi hơn 67% nữ công nhân có BHXH thì chỉ có chưa đến 29% nữ di cư lao động tự do được hưởng hình thức bảo hiểm này. Hầu hết có BHXH là do đã được tham gia bảo hiểm cho những công việc trước đây hoặc từ nơi xuất cư.
Lao động nữ di cư chịu nhiều thiệt thòi trong tiếp cận an sinh xã hội và dịch vụ công. Ảnh: Tào Ngọc
Liên quan đến BHXH cho đối tượng lao động nữ, có một vấn đề đặc thù là chế độ thai sản. Theo quy định, người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp: lao động nữ mang thai, sinh con, người nhận nuôi con dưới 4 tháng tuổi, đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Trong các trường hợp này, phụ nữ được hưởng những quyền lợi riêng về ngày nghỉ, thời gian làm việc, phụ cấp. Tuy nhiên, PNDC làm việc trong khu vực phi chính thức không được thụ hưởng do không có BHXH.
So với BHXH thì BHYT lại có ý nghĩa thiết thực khi người lao động có vấn đề về sức khỏe hoặc sử dụng dịch vụ y tế. Tuy nhiên, gần 1/2 PNDC không có BHYT. Đây là một rủi ro lớn, nhất là những trường hợp chi phí chăm sóc y tế cao. Trong khi đó, hơn 60% PNDC trong độ tuổi 15-29 và hơn 1/2 PNDC đã lập gia đình. Với đặc thù này, nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho họ là rất lớn.
Ít được tiếp cận giáo dục
Tiếp cận giáo dục đối với PNDC gồm hai khía cạnh: bản thân PNDC và con cái đi kèm. Ở cả hai khía cạnh này, kết quả khảo sát đều đưa ra một bức tranh không tích cực, thậm chí là đáng lo ngại. PNDC thực hiện việc học tập ngoài thời gian di cư, cụ thể hầu hết đã được học đến trình độ hiện có từ trước khi di cư (94,5%) và không học thêm được gì trong quá trình di cư. Một trong những rào cản lớn là quỹ thời gian còn lại của phụ nữ quá eo hẹp. Thời gian làm việc trung bình của PNDC là 9,2 giờ/ngày và gần như không có ngày nghỉ cuối tuần. Bên cạnh đó, chi phí sinh hoạt cao, thu nhập lại thấp nên họ khó có thể trang trải sinh hoạt phí cũng như đầu tư cho việc học tập.
Đối với các lao động nữ di cư có con nhỏ đi cùng, kết quả khảo sát cho thấy trẻ con của lao động nữ di cư gặp nhiều khó khăn về học phí, trường học và thủ tục đến trường. Do không có hộ khẩu thường trú nên lao động nữ di cư phải gửi con đến các cơ sở giáo dục tư nhân vốn mang tính tự phát, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro.
Được xem là "công dân hạng hai", những người di cư chịu nhiều thiệt thòi trong tiếp cận chính sách an sinh xã hội và các dịch vụ công. Theo PGS-TS Hoàng Bá Thịnh, rất cần xóa bỏ những rào cản về nhận thức và cơ chế để PNDC làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức có thể dễ dàng tiếp cận hệ thống an sinh xã hội và các dịch vụ công một cách công bằng, bình đẳng với người có hộ khẩu thường trú.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.