Theo dõi Báo Hànộimới trên

Bài 2: Trước là làm gương, sau là luật

Nguyễn Ngọc Tiến| 10/04/2012 06:30

(HNM) - Tham nhũng, ngoài lòng tham của con người còn có nguyên nhân khác là cơ chế có nhiều kẽ hở nên quan tham có cơ hội để đục khoét. Để hạn chế tệ nạn này, nhiều triều vua đã có quy định cụ thể nhưng đến đời vua Lê Thánh Tông thì được nâng lên thành luật (Luật Hồng Đức).

Vua Lý Nhân Tông sắp băng hà đã để lại di chiếu nhắc nhở việc tang lễ phải tiết kiệm. Vua Lê Thánh Tông thấy con dân của mình khốn khó đã triệt bỏ đồ nhạc, giảm bớt thức ăn. Thời Trần có Trần Thời Kiến nổi tiếng thanh liêm được vua ban cho cái hốt với bài minh ca ngợi, còn Vũ Tụ thời Lê sơ làm quan to nhưng vẫn sống thanh bần được vua ban cho thẻ bài "Liêm tiết". Lê Thánh Tông rất đề cao quan thanh liêm, thấy người tài đức, vua đã ra sắc lệnh: "Từ nay, Cấp sự trung trong Lục khoa và Giám sát ngự sử nếu có khuyết ngạch thì Bộ Lại chọn các quan trong kinh sư, ngoài các đạo... là người liêm khiết, cần mẫn, cứng rắn, ngay thẳng, có thành tích về chính trị, thì cất nhắc lựa bổ". Người được đề cử vào chức vụ ấy sẽ thử việc trong một năm nếu xứng thì giữ nguyên không đổi sang chức khác. Với quan miền viễn biên, nếu thanh liêm, "hết lòng vỗ về thương yêu dân không nhũng nhiễu" và việc thu thuế vẫn đầy đủ khi mãn hạn 6 năm, hoàn thành tốt công việc sẽ cho chuyển về nơi tốt hơn. Và không chỉ vậy, Lê Thánh Tông còn thưởng tiền bạc "Nhà ngươi (quan Nguyễn Thiện) làm bầy tôi, hết lòng thành lo việc nước, thường dâng lời nói phải, có lúc trẫm dùng uy quyền để lấn át cũng chưa thấy nhà ngươi nao núng. Thật là đáng khen. Vậy đặc cách sai viên Ty lễ giám đem sắc dụ đến ban khen thưởng cho bạc lạng". Hay trường hợp của Nguyễn Phục, người luôn ăn nói ngay thẳng do đó được thăng làm Tham chính Thanh Hóa và thưởng nhiều vàng bạc. 

 Về chuyện dùng hiền tài thời Trần có chuyện như sau: Khi người thân có ý muốn đưa người nhà ra làm quan, Trần Thủ Độ biết rõ người đó tài trí ra sao đã nói rằng phải chặt ngón tay, người thân hỏi sao làm vậy, ông trả lời triều đình đã có quy định về chọn người làm quan, chặt ngón tay để phân biệt quan giỏi và quan kém cỏi. Thế là người thân không dám xin xỏ nữa. Đầu năm 1428, sau khi Đại Việt sạch bóng quân xâm lăng, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế. Trải qua hai mươi năm bị ngoại xâm, chiến tranh tàn phá, đất nước chìm ngập trong những khó khăn lớn lao nên Lê Thái Tổ đã dồn hết tâm lực để giải quyết những công việc quốc gia đại sự. Mặc dù vậy, Lê Thái Tổ vẫn luôn canh cánh nỗi lo giữ nghiêm phép nước. Ngày 26-2-1429, Lê Thái Tổ ra lệnh cho các vị đại thần và các quan hành khiển xem lại các điều lệnh của ông có gì phương hại đến việc quân, việc nước, hoặc giả là việc sai dịch không. Ngày 18-10-1429, ông lại ra lệnh cho các đại thần, tổng quản và các quan từ hành khiển trở xuống: "Người xưa có câu: Vua không chọn tướng mà dùng thì có khác gì đem dâng nước mình cho giặc. Trẫm không lúc nào không suy nghĩ đến điều đó. Bởi đêm ngày lo nghĩ nên mới đem việc quân, việc nước quan trọng mà trao cho các khanh. Thế mà các khanh cứ điềm nhiên như không, trên thì phụ lòng tin dùng của triều đình, dưới thì chẳng chút đoái thương đến quân dân, sao mà biếng nhác việc quan đến thế? Nay, ta ra chiếu này để răn báo, nếu không biết tự mình sửa lỗi, lại còn tái phạm, thì phép nước còn chờ đó, khi ấy đừng nói là trẫm phụ bề tôi cũ có nhiều công lao". Nói ra điều ấy Lê Lợi muốn bách quan nghiêm giữ phép nước nhưng trước hết quan lại, nhất là các bậc khai quốc công thần, trước phải tự làm gương.

Nước thịnh hay loạn cốt ở trăm quan, được người giỏi thì nước trị, dùng người xấu thì nước loạn. Quy chế về bảo cử, tiến cử được tiến hành rất tốt và nghiêm túc dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều trường hợp tiến cử, bảo cử không đúng đã bị bác bỏ như trường hợp Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Như Đỗ đề cử Nguyễn Thế Mỹ và 8 người để ứng tuyển vào các vị trí nhưng xét thấy những người ấy đều mới ra làm quan, tài cán tầm thường nên Lê Thánh Tông lại hạ lệnh cho cử 10 người hiện làm quan trong kinh từ hàng ngũ phẩm trở xuống. Thậm chí trường hợp của Lê Niệm tiến cử người không xứng chức đã bị bãi miễn.

 Không chỉ ra quy định về chọn quan, năm 1471, Lê Thánh Tông đặt Lục khoa (cơ quan thanh tra, giám sát) bên cạnh Lục bộ, Lục tự, có trách nhiệm xem xét hành vi sai trái của quan lại. Ngay cả Bộ Lại, bộ có quyền hành cao nhất trong việc tuyển bổ, thăng giáng mà không đúng thì cơ quan thanh tra có quyền tố cáo, giới thiệu người khác để cho "lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng kiềm chế nhau, uy quyền không giả mà lẽ nước khó lay suy". Sớm có ý thức kiến thiết, xây dựng đội ngũ quan lại nên Lê Thánh Tông đã tỏ rõ quan điểm của mình: "Nhân được thời mà ra trị nước, tất phải đặt quan, phân chức, xây dựng kỷ cương, định rõ chế độ cho một đời, mở nền thái bình cho muôn thuở". Đặt quan để làm việc thì phải có lương bổng đủ cho họ sống và nuôi vợ con thì mới bắt họ thanh liêm được, Lê Thánh Tông cho rằng: "Người làm quan có đầy đủ thì mới bắt đầu làm điều thiện và triều đình có gia ơn cho người làm quan thì người làm quan mới gia ơn cho dân được". Hiểu rõ được điều này nên năm 1473, Lê Thánh Tông định chế độ bổng lộc cho quan lại trong kinh, ngoài trấn. Theo đó, việc phân cấp bổng lộc được thực hiện dựa theo nguyên tắc: "Những nơi ít việc và nơi rất ít việc, những chức thong thả và những chức rất thong thả tiền bổng có khác nhau". Đối với các quan cùng phẩm hàm nhưng giữ các trọng trách ở địa phương số tiền lương cũng không có sự khác biệt so với các quan trong triều nhằm khuyến khích các quan làm việc ở lộ, phủ và để quan lại không vì lương bổng quá thấp so với quan trong kinh mà sinh ra vơ vét của dân, sinh ra nhũng lạm. Ngoài lương, Lê Thánh Tông còn ban cấp cho quan lại nhiều loại lộc như: Lộc điền, huệ lộc, dân lộc... và việc ban cấp này rất hậu. Trong đó chủ yếu là lộc điền và coi đây là nguồn thu nhập chính. So với các triều đại, bổng lộc thời Lê Thánh Tông ít hơn nhưng lại không để cho viên quan nào có việc mà hưởng ít. Dưới thời Lê Thánh Tông, quan lại liêm khiết, hết mực vì công việc được biểu dương ban tiền hay thăng chức.

Từ thời nhà Lý đã có những quy định cụ thể về việc trừng trị những hành vi tham ô, ăn trộm của công. Trong quy định về thể lệ thu thuế đã định rõ: Quan lại thu thuế của dân, ngoài mười phần đóng vào kho nhà nước, được thu riêng một phần gọi là "hoành đầu". Kẻ nào thu quá số ấy thì bị khép vào tội ăn trộm. Khố ty thu thuế lụa, nếu ăn lễ của dân để lấy lụa thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng, nếu lấy từ một đến trên 10 tấm thì theo số tấm sẽ thêm phối dịch 10 năm. Luật Hồng Đức cũng có những quy định rõ ràng về chế độ thưởng xứng đáng cho người dân tố cáo đúng sự thật các hành vi tham nhũng: Người thu lúa thuế ruộng mà giấu giếm giảm bớt thì người cáo giác được thưởng tùy theo việc nặng nhẹ. Trong Hoàng Việt luật lệ có 17 quyển quy định riêng với tội nhận hối lộ. Đến triều vua Minh Mạng đã cho sửa chữa và bổ sung để hạn chế thấp nhất nạn tham nhũng. Tiêu biểu là luật "Hồi tỵ" (nôm na là không đưa người sinh ra ở đất đó về làm quan ở đó), đây là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức bộ máy chính quyền thời Minh Mạng. Luật ban ra nhằm ngăn chặn những trường hợp vì tình riêng mà đạp lên phép nước, kéo bè, kéo cánh hà hiếp dân lành để tham nhũng. Ngoài các biện pháp nhằm ngăn ngừa tệ tham nhũng trên, Minh Mạng còn cho đặt cơ quan chuyên giám sát các hành vi của quan lại và mở rộng giám sát trong quần chúng nhân dân. Những biện pháp chống tham nhũng Minh Mạng đề ra khá chặt chẽ, toàn diện, công khai nhằm hạn chế có hiệu quả tệ tham nhũng.

Những dẫn chứng trên chỉ là số ít trong rất nhiều các chính sách phòng chống tham nhũng trong các triều đại phong kiến. Chống tham nhũng là việc khó nhưng nói như vua Lê Thánh Tông thì không thể không làm vì điều đó liên quan đến an nguy của giang sơn, xã tắc.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Bài 2: Trước là làm gương, sau là luật

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.