(HNMO) - Chiều 21/5, Chính phủ đã trình Quốc hội đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế. Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, tái cơ cấu kinh tế bao gồm hai nội dung chủ yếu:
Theo tờ trình, tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 nhằm hướng đến mục tiêu tổng quát và bốn mục tiêu thành phần.
Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là: nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; từ đó, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; tạo tiền đề đưa nền kinh tế nước ta chuyển lên trình độ phát triển cao hơn vào khoảng cuối 2030.
Bốn mục tiêu thành phần của tái cơ cấu kinh tế bao gồm: Góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; Thiết lập phát triển cân đối hợp lý giữa các địa phương, vùng miền trên cả nước; Cải thiện, nâng cấp trình độ phát triển các ngành và toàn bộ nền kinh tế, trong đó, các ngành sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao từng bước trở thành những ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế; Góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, củng cố vị thế quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Trong đề án, Chính phủ cũng nêu rõ, nội dung của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là quá trình phân bố lại các nguồn lực trên phạm vi quốc gia và toàn bộ nền kinh tế để nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế; trên cơ sở đó, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; nâng trình độ của các ngành kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung lên mức phát triển cao hơn.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, tái cơ cấu kinh tế bao gồm hai nội dung chủ yếu: tái cơ cấu ưu tiên trước mắt và tái cơ cấu trọng tâm, lâu dài. Về ưu tiên trước mắt, trong 5 năm tới ưu tiên tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Trong đó, tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính, trước hết là để loại bỏ nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, đồng thời, tạo điều kiện để hệ thống tài chính phát triển bền vững và thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng trung gian tài chính và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình; làm tiền đề thúc đẩy tái cơ cấu trên các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động, hiệu lực quản trị, cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương của quản lý nhà nước và đảm bảo nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng.
Tái cơ cấu đầu tư sẽ tập trung vào đổi mới căn bản cơ chế và cách thức huy động, phân bố, quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội theo định hướng: Huy động hợp lý tổng đầu tư xã hội, đồng thời bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, bao gồm: cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, cân đối tiết kiệm nội địa và đầu tư, cân đối ngân sách, cân đối cán cân thanh toán, nợ công và nợ nước ngoài; Duy trì tỷ trọng hợp lý đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội đi đôi với tăng cường huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác và cải thiện hiệu quả đầu tư; Xác định cụ thể lĩnh vực ưu tiên đầu tư của nhà nước; trước hết, tập trung vào các lĩnh vực , các công trình quan trọng, công ích không có khả năng thu hồi vốn mà tư nhân không đầu tư hoặc không được đầu tư (lĩnh vực an ninh, quốc phòng) và đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc đặc biệt khó khăn; sử dụng một phần vốn ngân sách nhà nước cho đối ứng các dự án ODA và đối tác công tư; đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý đảm bảo các dự án có hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất trong các lĩnh vực ưu tiên đầu tư sẽ được lựa chọn và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả nhất; Mở rộng phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân, nhất là tư nhân trong nước. Đối với các ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân chưa muốn làm, thì khuyến khích họ làm; đối với những ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân chưa làm được thì tạo điều kiện và hỗ trợ họ làm; đồng thời, đổi mới chế độ khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư để thu hút đầu tư phát triển các ngành ưu tiên phát triển và vùng kinh tế động lực.
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tập trung thực hiện đồng thời trên ba nội dung: Xác định rõ vai trò, chức năng của từng loại doanh nghiệp nhà nước (công ích, quốc phòng, an ninh, điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô và vì phát triển quốc gia mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư) để từ đó sắp xếp, phân loại, cơ cấu lại danh mục đầu tư và ngành nghề kinh doanh, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính; cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu; thoái vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối: Đổi mới, phát triển và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; Áp đặt đầy đủ kỷ cương nhà nước và kỷ luật thị trường buộc các DNNN phải hoạt động đầy đủ theo cơ chế thị trường và cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp khác.
Về nội dung trọng tâm và lâu dài, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 đã xác định trọng tâm của tái cơ cấu kinh tế là “cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng, thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế”.
Đối với nông, lâm, ngư nghiệp: tập trung xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh qui mô lớn có nghệ cao, đạt các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến về an toàn vệ sinh thực phẩm, kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm, với chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao như cà phê, chè, cao su, ca cao, hạt tiêu, hạt điều, cá da trơn, tôm và hải sản khác, lúa gạo, ngô vầ đậu tương ,.v.v... Đối với nhóm sản phẩm có nhu cầu nội địa lớn nhưng mức độ cạnh tranh trung bình như gia cầm, trứng, thịt lợn, cây ăn quả,.v.v… thì duy trì quy mô và phương thức sản xuất đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng.
Đối với công nghiệp: thực hiện tái cơ cấu sản xuất công nghiệp một cách toàn diện, trong đó, chuyển mạnh từ gia công, lắp ráp là chủ yếu sang chế tạo và chế tác, kết nối với mạng sản xuất và chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu đối với các ngành, sản phẩm hiện có lợi thế cạnh tranh như: chế biến lương thực, thực phẩm, nước giải khát các loại, may mặc, giày da và các sản phẩm da, vật liệu xây dựng, cáp điện, các sản phẩm gia dụng, các loại sản phẩm nhựa, sản phẩm phục vụ du lịch, điện tử và công nghiệp công nghệ thông tin. .v.v.. Đồng thời, tập trung phát triển một số ngành ưu tiên và công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đối với lĩnh vực dịch vụ: xây dựng cơ cấu đa dạng về loại hình dịch vụ và trình độ phát triển, đồng thời, tập trung phát triển một số ngành, sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh như: dịch vụ thương mại, dịch vụ xây dựng, khách sạn, nhà hàng, du lịch, viễn thông, tài chính-ngân hàng, dịch vụ logistics, giáo dục và đào tạo, chăm sóc y tế, các loại dịch vụ sản xuất nông nghiệp.
Các ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển dự kiến bao gồm: hoá dầu; điện tử và công nghiệp công nghệ thông tin; luyện kim, đóng tàu, công nghiệp xanh và năng lượng tái tạo, chế biến lương thực, thưc phẩm, các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh cao (cà phê, chè, cao su, ca cao, hạt tiêu, hạt điều, cá da trơn, tôm, lúa gạo,.v.v…), dịch vụ logistics (vận tải hàng hóa, cảng biển, dịch vụ hải quan, kho bãi và bảo quản hàng hóa, dịch vụ phân phối,.v.v..); dịch vụ phát triển kinh doanh; dịch vụ du lịch.
Để thực hiện, đề án kiến nghị 12 nhóm giải pháp tái cơ cấu kinh tế, bao gồm: Nâng cao chất lượng các quy hoạch, gắn chiến lược với quy hoạch và kế hoạch, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển; Tái cơ cấu thị trường tài chính, ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, thúc đẩy và hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế, góp phần tăng trưởng bền vững; Tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội của đầu tư nhà nước; Tái cơ cấu DNNN, đồng thời, nâng cao chất lượng doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài; Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh để huy động tối đa và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư; Đổi mới chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư, cơ chế quản lý đầu tư nhằm thu hút và định hướng đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển các ngành, nghề ưu tiên phát triển; Xây dựng và thực hiện các chương trình đồng bộ phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên phát triển nhằm tăng nhanh hàm lượng khoa học, nâng cao tỷ trọng giá trị nội địa và năng lực cạnh tranh; Phát huy lợi thế của từng vùng, chuyển đổi và hình thành cơ cấu vùng kinh tế hợp lý, đa dạng về ngành, nghề và trình độ phát triển; Đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng quy mô sản xuất, tập trung chuyên canh, áp dụng quy trình và kỹ thuật sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sống ở khu vực nông thôn; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho tái cơ cấu kinh tế; Phát triển khoa học, công nghệ; có cơ chế, chính sách để khoa học công nghệ trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; Giải quyết tốt các vấn đề môi trường và xã hội.
Không sử dụng DNNN là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, bình ổn nền kinh tế
Thẩm tra đề án của Chính phủ, Ủy ban Kinh tế đề xuất xây dựng Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế như một hệ thống chính sách để tập trung thực hiện 3 đột phá: về thể chế, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng đã được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Trên cơ sở đó, triển khai các đề án thành phần theo ngành, lĩnh vực, vùng, xác định rõ thứ tự ưu tiên, chủ thể thực hiện và lộ trình thực hiện tái cơ cấu bao gồm những ngành, lĩnh vực trọng điểm, cần thực hiện trước, những ngành, lĩnh vực thực hiện sau hoặc thực hiện đồng thời, có bước đi hợp lý tránh gây đột biến lớn với khung thời gian cụ thể là đến năm 2020.
Ủy ban Kinh tế cho rằng, đối với những Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành do yêu cầu cấp thiết của quá trình tái cơ cấu, cần tiếp tục thực hiện và sẽ được điều chỉnh cần thiết sau khi Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế được thông qua để bảo đảm sự hài hòa, thống nhất trong khuôn khổ chung.
Về chi phí thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế và đánh giá tác động của việc thực hiện Đề án đối với việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc tính toán chi phí để thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện của Việt Nam nguồn lực bị hạn chế. Việc tính toán chi phí này sẽ góp phần xác định những nội dung cần ưu tiên thực hiện, tránh dàn trải, lãng phí. Ngoài ra, phải tính toán về chi phí xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của đất nước… là cần thiết để có giải pháp phù hợp.
Đi vào những vấn đề cụ thể, đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với 4 mục tiêu nêu trong Đề án, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu chung của việc tái cơ cấu là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng nguồn lực quốc gia theo mô hình tăng trưởng mới với cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, hiệu quả hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững và phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa. Để đạt được mục tiêu chung này, những chỉ tiêu cụ thể được xác định trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020.
Mô hình tăng trưởng mới trong giai đoạn 2011-2020 cần phải huy động mọi nguồn lực xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển thị phần đối với sản phẩm của nước ta, đồng thời giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tăng trưởng xanh và bảo đảm an sinh xã hội.
Về phương hướng tái cơ cấu nền kinh tế, Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ, bổ sung một số nội dung sau: Việc quy hoạch phát triển các khu kinh tế, vùng kinh tế, hệ thống sản xuất, hệ thống cung ứng dựa trên việc lựa chọn những vùng có lợi thế phát triển để lan tỏa làm động lực thúc đẩy các vùng khác phát triển. Cần làm rõ mối quan hệ giữa quy hoạch tổng thể nền kinh tế với quy hoạch vùng, quy hoạch ngành động lực phát triển.
Đối với lĩnh vực đất đai, các ý kiến cho rằng sửa đổi Luật đất đai phải bảo đảm việc sử dụng đất mang tính ổn định, dài hạn bằng việc xác định rõ chủ thể sở hữu theo Hiến pháp, phân biệt rõ quyền của người sử dụng trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng với quyền quản lý nhà nước của chính quyền các cấp nhằm tạo ra động lực để các chủ thể quản lý và sử dụng khai thác một cách hiệu quả tài nguyên, tài sản đặc biệt, tư liệu sản xuất chủ yếu này.
Đa số ý kiến của Ủy ban tán thành với các nhóm giải pháp của Chính phủ. Tuy nhiên, với nhóm giải pháp liên quan đến xây dựng chương trình, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch, Ủy ban Kinh tế cho rằng, tồn tại lớn là quy hoạch, định hướng còn nặng theo ngành và địa phương phục vụ cho các lợi ích ngắn hạn. Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung giải pháp phát triển kinh tế vùng phải đồng bộ với việc xây dựng và thực hiện chương trình phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên, hình thành mối liên kết giữa các địa phương trong vùng thông qua liên kết ngành và phát huy lợi thế của kinh tế vùng.
Với nhóm giải pháp liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu thị trường tài chính, Ủy ban Kinh tế đề nghị, cần có Đề án chung về tái cơ cấu thị trường tài chính và lộ trình phù hợp. Trước mắt, tập trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người gửi tiền; quyền lợi và trách nhiệm của chủ sở hữu. Làm rõ nguồn tài chính thực hiện việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính và phải có các biện pháp cụ thể để tránh thất thoát tài sản của nhà nước.
Đồng thời, phát triển song song cả thị trường tiền tệ và thị trường vốn, trong đó tập trung phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu, giảm dần việc huy động vốn đầu tư chủ yếu từ tín dụng ngân hàng. Tái cơ cấu ngân hàng thương mại Nhà nước cần gắn với tái cơ cấu DNNN; tăng cường năng lực giám sát thị trường tài chính; nâng cao vai trò, trị trí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tư cách là Ngân hàng Trung ương, nhất là trách nhiệm công bố mục tiêu chính sách, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình. Cần xây dựng Chiến lược nợ Chính phủ và nợ quốc gia mang tính dài hạn, bảo đảm hiệu quả trong đầu tư và khả năng trả nợ hàng năm.
Về nhóm giải pháp liên quan đến tái cơ cấu đầu tư bao gồm cả đầu tư công và đầu tư của các thành phần kinh tế, Ủy ban đề nghị Đề án làm rõ với nguồn lực có hạn hiện nay, cần ưu tiên đầu tư công vào lĩnh vực nào và thiết lập mô hình quản lý tài chính cho các dự án đầu tư công, phân loại, sắp xếp hợp lý căn cứ vào tính chất nguồn vốn hình thành, khắc phục trùng lắp, chồng chéo giữa các nguồn vốn và khó quản lý, kém hiệu quả hiện nay.
Về nhóm giải pháp liên quan đến tái cơ cấu doanh nghiệp, Ủy ban Kinh tế đề nghị Đề án xây dựng hệ thống thể chế với ưu tiên đầu tiên là xây dựng cơ chế quản lý minh bạch của DNNN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phải cạnh tranh bình đẳng. Sử dụng vốn và tài sản có hiệu quả, giảm dần và loại trừ các chi phí ngoài kinh doanh, công bố minh bạch thông tin định kỳ rộng rãi trước công chúng.
Đối với doanh nghiệp khu vực tư nhân, việc tái cơ cấu cần chú trọng tăng năng lực quản trị doanh nghiệp, tăng tính minh bạch hoạt động, kết quả tài chính, tiến tới huy động vốn trên thị trường vốn để đầu tư mở rộng sản xuất-kinh doanh khi có nhu cầu, giảm phụ thuộc vào đầu tư công và vốn tín dụng thương mại ngân hàng.
Đối với trọng tâm là tái cơ cấu DNNN, hầu hết các thành viên Ủy ban Kinh tế đề nghị không sử dụng DNNN là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, bình ổn nền kinh tế mà DNNN có nhiệm vụ quan trọng là đi trước, mở đường ở những ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp thuộc thành phần khác không đủ năng lực, những ngành đòi hỏi về vốn và công nghệ, tạo nền tảng cơ bản cho những ngành sản xuất công nghệ hiện đại có giá trị gia tăng cao. Việc thoái vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước ra khỏi các ngành kinh doanh không liên quan nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh chính, nhất là trong lĩnh vực tài chính liên quan chặt chẽ đến đề án tái cơ cấu thị trường tài chính, nên cần có lộ trình thực hiện một cách cẩn trọng để tránh gây đột biến lớn đối với nền kinh tế. Ngoài ra, kiên quyết tách bạch nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận với các nhiệm vụ an sinh xã hội khác không vì mục tiêu lợi nhuận. Cần hạn chế tối đa trách nhiệm chính trị - xã hội đối với các DNNN, nhiệm vụ này do chính sách tài khóa và chính sách an sinh xã hội thực hiện.
Ủy ban cũng đề nghị, cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện chương trình thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước để từ đó có chính sách tiếp theo cho phù hợp như: Ban hành Luật quản lý việc sử dụng vốn nhà nước vào mục đích đầu tư, kinh doanh tại các doanh nghiệp Nhà nước; Cải cách hệ thống quản trị đối với các DNNN và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN. Nghiên cứu thành lập cơ quan quản lý vốn nhà nước tương đối độc lập và được trao đầy đủ thẩm quyền. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức và mô hình hoạt động của tập đoàn kinh tế, kinh doanh lành mạnh theo nguyên tắc thị trường, trước mắt giảm tối đa tính độc quyền của tập đoàn, tổng công ty, hoàn thiện mô hình công ty mẹ - công ty con . Hoàn thiện cơ chế người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên cơ sở làm rõ địa vị pháp lý, mối quan hệ với cơ quan quản lý vốn, cơ quan quản lý nhà nước.
Đáng chú ý, Ủy ban Kinh tế đề nghị, cần hình thành một tổ chức chịu trách nhiệm giúp Quốc hội, Chính phủ thực hiện Đề án này. Nếu cần thiết, Quốc hội xem xét, trao cho tổ chức này có một số thẩm quyền nhất định để thực hiện nhiệm vụ.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.